DẤU HIỆU TRÊN BẦU TRỜI
Tường thuật của một nhân chứng được mục kích trực diện
Vào ngày 20 tháng 4 năm 1969, tôi đến thăm chị Pierina. Chúng tôi nói chuyện với nhau về nhiều vấn đề, chẳng hạn tôi hỏi chị: Đức Bà hình dung ra sao, chị Pierina mỉm cười và nói, khuôn mặt Mẹ rất hiền dịu và đẹp không thể tả được, một lần đã được nhìn ngắm Mẹ rồi thì người ta chỉ muốn có một điều là được ngắm nhìn Mẹ lần nữa, Đức Mẹ đẹp lắm, đẹp tuyệt vời!”
Vào khoảng 2 giờ chiều, tôi có mặt ở Fontanelle với một nhóm nhỏ khoảng 19 người, trong ngôi nhà thờ giáo xứ, chúng tôi được nghe nói rằng hôm nay là ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục. Vì thế chúng tôi cầu nguyện với ý chỉ đó và lần hạt nhiều tràng chuỗi mân côi. Ngay từ tháng 3, chị Pierina đã viết thư cho tôi, yêu cầu tôi tới Fontanelle, bởi vì Đức Nữ đã hứa cho một dấu chỉ trên bầu trời để cuộc chiến thắng của Mẹ tới nhanh hơn.
Thời tiết không đẹp, bầu trời giăng đầy mây xám, không khí lạnh lẽo. Tôi không thể tưởng tượng ra được dấu lạ đó sẽ như thế nào! Chúng tôi uống nước giếng và rót đầy vào chai. Bác tài xế giục chúng tôi trở về.
Bên giếng nước là một lối đi nhỏ, bác tài xế của chúng tôi lên lên xuống xuống trên đó. Bỗng nhiên bác ta kêu lên: “hãy quay lại và nhìn lên bầu trời”. Chúng tôi quay lại và nhìn lên bầu trời,thật ngạc nhiên khi thấy rằng, các đám mây đang từng phần biến mất, chúng tôi có thể nhìn thấy một khoảng không trung rộng lớn trên bầu trời bắt đầu đen lại. Cuối cùng, khoảng không trung đó tối đen như màn đêm. Tôi xem đồng hồ lúc đó lf 4 giờ chiều. Tôi chưa bao giờ thấy sự tối tăm dày đặc như lúc này, và nói với người bên cạnh: “nơi đây, màn đêm đang ụp xuống”. Bây giờ chúng tôi có thể nhìn thấy những ngôi sao. Trước tiên phía bên phải, từng ngôi sao lần lượt xuất hiện, tới khi chúng tôi thấy một triều thiên lớn đủ 12 ngôi sao. Lúc này, chúng tôi thấy ở một khoảng xa hơn, một cái đĩa nhỏ mờ mờ, rõ và lớn dần rồi tiến gần tới phía chúng tôi. Nó trở nên đỏ rực với những cuồng chắn sáng đẹp đẽ và bắt đầu chuyển động lên xuống, tới lui. Chao đảo như đèn lồng trong bão tố. Mặt trời ở ven những đám mây và hầu như nó lao nhanh xuống trái đất.
Hết sức kinh hãi, tất cả chúng tôi quỳ sụp xuống và kêu cầu Thiên Chúa cứu giúp. Tôi nghĩ cuộc phán xét cuối cùng đã đến, và chỉ duy một ý nghĩ canh cánh là mong cho các con tôi được cứu thoát. Mặt trời ngừng rơi và như một bánh xe bằng lửa, bắt đầu xoay tròn trên trục của chính nó, sang bên phải rồi sang bên trái, phóng những cuồng lửa cực lớn xuống trái đất. Khắp cả bầu trời bị nhuộm đỏ như máu: một quang cảnh kinh khiếp không thể tả được.
Mặt trời quay lai khoảng không trung tối đen dầy đặc như một hành lang hẹp, rồi thoát khỏi hành lang đen đặc đó rung chuyển, lên lên xuống xuống, chẳng khác gì nó đang bị một cơn giông bão lớn thổi trôi dạt trên bầu trời. Bây giờ mầu đỏ trên bầu trời biến mất, và những đám mây trắng như tuyết, mặt trời chiếu những tia sáng mầu trắng chói lọi. Mặt trời ló ra khỏi hành lang đen dầy đặc, chầm chậm di chuyển về phía chúng tôi, hơi lúc lắc và lửng lơ một hồi giữa triều thiên 12 ngôi sao. Rồi tách đôi thành hai phần, và chúng tôi thấy một luồng sáng hình thánh giá.
Bây giờ, bầu trời nhuộm ánh vàng, những đám mây vàng nhạt như lưu huỳnh. Mặt trời rực một mầu vàng tuyền, ló ra khỏi bức màn đen, nó lại nhảy múa tới tới lui lui hầu như một trận giông bão lớn lại xuất hiện trên bầu trời. Nó đi như trôi nổi, tới ven các đám mây và rồi dường như lao nhanh xuống trái đất như một bánh xe bằng lửa đang xoay tròn, những lưỡi lửa lớn màu vàng như đỏ nhào xuống trái đất. Quang cảnh này lập đi lập lại nhiều lần.
Sau một hồi, không trung đen đặc trở nên sáng sủa với những ngôi sao mờ mờ, những đám mây lại phủ khắp bàu trời. Sau đó một hồi lâu, người ta có thể nhìn thấy một khoảng vàng trên bầu trời. Bây giờ, từ lonato, cách đấy khoảng 12 km, chúng tôi vẫn còn có thể trông thấy khoảng vàng đó. Tôi nhì đồng hồ là 4 giờ 15 chiều, tất cả quang cảnh đó diễn ra trong khoang 15 phút.
Mọi người đều có một ấn tượng mạnh, đây chính là dấu hiệu mà Đức Nữ đã báo trước cho chúng tôi qua chị Pierina , cũng như những người khác, tôi hiểu ý nghĩa hiện tượng đó là gì! Bão tố sẽ phải đến, chúng ta phải đền tội vì Thiên Chúa đã bị xúc phạm quá nhiều. Màu đỏ máu được nhìn thấy 3 lần, có nghĩa là: cần phải cầu nguyện nhiều hơn, ăn năn thống hối nhiều hơn và đền tạ nhiều hơn nữa. Chúng tôi chỉ nhìn thấy màu vàng và màu trắng có 1 làn duy nhất.
Những dấu chỉ mới trên nền trời
Ngày 8 tháng 12 năm 1969, tôi lại tới Motichiari. Khoảng 2g30 chiều, chúng tôi đang ở ngoài giếng nước, bỗng nhiên một cậu bé la lên: “ nhìn kìa, mặt trời đang nhảy múa”
Mọi người đều nhìn lên trời. Không một ai mang theo kính mát! Bầu trời xanh dương và mặt trời chiếu nắng ấm áp, ai cũng có thể nhìn vào mặt trời cách dễ dàng. Mặt trời chuyển thành màu hồng, rồi chuyển sang màu trắng như một tấm bánh thánh. ở hai bên, bên phải và bên trái, người ta nhìn thấy 3 luồng sáng chiếu ra, ở giữa là một luồng sáng chiếu ra những tia chớp tắt không liên tục giống như ánh sáng ngọn haỉ đăng giữa đại dương. Thêm vào đó, mặt trời chầm chậm xoay tròn quanh trục của nó. Rồi mặt trời chuyển thành màu vàng và cứ tiếp tục xoay, sau một hồi, nó đổi màu, đôi lúc màu đỏ,đôi lúc màu vàng và màu trắng. Khi mặt trời màu trắng thì những tia sáng lại xuất hiện lần nữa, dài dài, với ánh sáng chớp tắt, bây giờ tôi mới hiểu: 3 lần ngắn, 3 lần dài và 3 lần ngắn. Được lập lại 3 lần. Xem chừng giống như kí hiệu morse: xin cứu vớt linh hồn chúng tôi! SOS( save our souls)
Rồi mặt trời chuyển sang màu hồng và ở giữa xất hiện một vệt xanh dương nhỏ, nó lớn dần lên và xoay tròn rất nhanh giống như một cái đĩa phát ra vô số những tia chớp xanh, sang bên phải rồi sang bên trái.các tia chớp đó, đều tận cùng bằng những quả cầu xanh, chúng lướt liệng trên bầu trời và người ta nhìn thấy chúng rất rõ ràng. Thình lình, một bàn tay vô hình gom tất cả chúng lại trong những ký hiệu hình học; rồi chúng chầm chậm liệng xuống trái đất, khi chúng còn cách 10m tôi bắt đầu đếm, nhưng chẳng mấy chốc không thể đếm xuể vì có muôn vàn các ký hiệu ấy.
Tất cả chúng tụ lại với nhau thành hình một chuỗi tràng hạt, và kết thúc của xâu chuỗi này là một mẫu ảnh. Tôi nhìn lại cánh đồng tuyết phủ nhẹ, có thể nhìn thấy rõ ràng dấu vết còn in trên tuyết của những ký hiệu rơi từ từ, từ trời xuống. Vì vậy nó không thể là sản phẩm của trí tưởng tượng. Bây giờ cảnh quan thay đổi. Mặt trời trở thành màu trắng và chiếu những tia nắng xuống phía đông như từ trước. Những tín hiệu bằng ánh sáng chiếu rõ ràng lần nữa: 3 lần ngắn, 3 lần dài và 3 lần ngắn. Tôi có thể thấy rõ ràng. Thiên đàng chính thức lên tiếng kêu gọi: Save your Souls! Hãy cứu lấy linh hồn các ngươi!. Kế tiếp, mặt trời chuyển sang màu vàng rồi màu đỏ. Vệt xanh dương xuất hiện lần nữa, trở nên lớn hơn và lại phát ra những tia sáng mảnh mai. Nhưng lần này chúng chỉ dài khoảng một mét và bên trong có ánh sáng đèn nê-ông. Cuối mỗi tia có một trái cầu xanh dương. Bỗng nhiên vô số những tia sáng mỏng manh đâm xiên tua tủa khắp bầu trời, người ta hỏi tôi như thế nghĩa là gì. Chính tôi cũng không biết là gì và bảo họ chú ý xem. Rồi tia sáng mỏng manh hình chữ thập được đặt trên các tia sáng đó, khiến chúng trông giống như một cái thang.
Chầm chậm, chúng lướt qua khỏi bầu trời và rơi xuống mặt đất. Không thể nào đếm xuể chúng. Rồi mặt trời thay màu lần nữa, thành màu vàng giống như màu hồng trà, rồi lại thành màu đỏ. Vệt xanh dương xuất hiện trở lại, rộng lớn hơn và phát ra vô số mũi tên tia sáng mà ở cuối mỗi tia đều có những quả cầu xanh dương. Trên những cánh đồng phủ tuyết trắng, người ta thấy dấu vết chúng rất rõ ràng và chúng chìm vào lòng đất, những cánh đồng được biến thành màu xanh dương.
Đã đến giờ phải lên xe ra về, vì thế tôi bảo dân chúng ra xe buýt, chúng tôi không thể nán lại lâu hơn. Trước tiên tôi đi xuống giếng nước, rồi tôi lại đi lên các bậc thang lần nữa. Khi leo lên, tôi nhận ra tất cả mọi người đều sáng rực muôn màu phổ quang cầu vồng. Tôi lại quay nhìn vào mặt trời, trong chính lúc ấy, trông nó giống hệt một cầu vồng, như một bánh xe xoay tròn rất nhanh, và phát ra những chùm tia sáng đủ sắc màu xuống trái đất. Tôi có ấn tượng mạnh mẽ rằng đó là dấu hiệu của hòa bình.
Chầm chậm, mầu sắc nhợt nhạt dần và mặt trời chuyển trở lại màu sắc tự nhiên của nó. Người ta không thể nhìn vào mặt trời được nữa, nếu không có kính râm. Trước đó, người ta đã có thể nhìn thẳng vào mặt trời trong vong 45 phút mà không cần đến kính bảo vệ mắt. Có chừng 120 người hiện diện, tất cả đều nhìn thấy thế. Sau này, tôi được chi Pierina cho biết rằng chị đã nhận được rất nhiều bản tường trình như nhau. Về sau tôi cố gắng vẽ lại cảnh này, nhưng dĩ nhiên không thể diễn tả cái màu sắc rực rỡ huy hoàng của mặt trời trên mặt giấy.
Cảm tưởng của tôi là:
Thiên đàng rõ ràng thúc giục chúng tôi phải sốt sắng, phải thống hối ăn năn, phải cầu nguyện, hy sinh và đọc kinh mân côi. Thiên đàng cũng hứa chắc một thang an toàn và cứu rỗi bắc tới trái tim từ Mẫu Đức Maria, nếu người ta làm trọn những yêu cầu của Mẹ. Chị Pierina cũng nghĩ như vậy về ý nghĩa của những ký hiệu đó.
VI. NHỮNG CUỘC TRỞ LẠI NỔI BẬT
Các sinh viên thần học, hết người này đến người khác tới Montichiari, họ rơi vào cuộc khủng hoảng nội tâm sâu xa.Môt số đã quyết định từ bỏ ơn gọi linh mục bởi cảnh của Giáo Hội đương thời.Với Mẹ ‘Hoa Hồng Nhiệm’ ở Montichiari, họ tìm lại được lòng can đảm, sinh lực mới cho ơn gọi của mình.Từ đó, một số trong nhóm đã được tiến chức linh mục.các ngài tin tưởng mạnh mẽ vào sự trợ giúp của Đức Nữ.
Một linh mục trẻ, mới vừa chịu chức một năm trước, đã trở nên khô khan ngượi lạnh và rơi vào quan hệ với những phụ nũ xấu.sau khi phạm tội nặng nề, ngài tin rằng mình phải từ bỏ tahnsh chức linh mục.
Chị Pierina nói chuyện với ngài như một người mẹ và khuyên nhủ ngài dừng tuyệt vọng. Chị cùng ngài cầu nguyện lâu giò trước tượng Mẹ Hồng Nhiệm, nguòi Mẹ hay thương xót và nơi nương ẩn của các tội nhân. Rồi vị linh mục trẻ đáng thương nhận được ơn trở lại.Sau một lần xưng tội sốt sắng, quyền lực của quỷ dữ bị bẻ gẫy.Ngài tìm thấy đường về với niềm vui mới trong thánh chức linh mục và được tràn niềm tin tưởng.
Một thành viên của một Hội dòng, khoảng 30 tuổi, làm linh mục được 5,6 năm. Vị này đã trải qua một cuộc đấu khẩu kịch liệt với bề trên của mình và trở nên cay đắng, giận dữ, cuối cùng là bỏ nhà dòng.Trong hai năm, ngài không hề dâng lễ tuy vân kềm chế đươc bản than, để sống một đời sống tốt và yên ổn.Nhưng ngài không tìm đực bình an. Trong nỗi tuyệt vọng, ngài cầu cứu chị Pierina và cùng chị tìm được sức mạnh để thẳng thắn đề cập đến mọi vấn đề. Cuối cùng đãm mề hội và la lên tuyệt vọng, chị Pierina nói với ngài: “Cha à, từ đời đời, cha là một linh mục của Thiên Chúa. Hãy vững tin vào long thương xót của Chúa, hãy đặt niềm trông cậy vào Mẹ xót thương”.
Vị linh mục kêu lên tuyệt vọng: “Ôi tôi đã làm gì thế này!”
Chị Pierina cầm lấy tay cong người tuyệt vọng này và dẫn tới trước tượng Đức Nữ Hồng Nhiệm trong nhà nguyện riêng của cha Ở đây, chị cùng vị linh mục cầu nguyện lâu giờ. Vị linh mục trẻ hứa sẽ đi xưng tội ngay. Khi chòa tạm biệt ngài, chị Pierina xin ngài ban phép lành thánh chức linh mục cho chị. Trong nước mắt biết ơn, ngài ban phép lành như lòng chị mong ước. Ba tháng sau, ngài trở lại nhà dòng sau khi vượt thắng được những khó khăn ngãng trở lớn.Bây giờ ngài là một tấm gương khiêm nhường và thống hối.
Một giáo sư thuật lại cuộc trở lại của mình
Giáo sư A.L.P đã được ơn trở lại trước tượng Đức Mẹ Hồng Nhiệm ở Fontanelle ngày 7 tháng 9 năm 1970.Sau này, trong một bài nói chuyện, giáo sư thuật lại cho sinh viên của ông về sự thay đổi bất ngờ của mình. Ở đây, chúng tôi chỉ trích dẫn vài trong:
Tôi đã hứa kể cho các bạn nghe về cuộc trở lại của tôi, nhưng tôi thực không muốn làm cho các bạn cảm động hay muốn gây ảnh hưởng gì trên các bạn cả. Thiên Chúa cố gắng cứu vớt linh hồn nhân loại mọi thời, đặc biệt những ai đã đi quá xa Người. Người cố gắng che dấu chính Người, bởi vì trong ánh sang của Người, họ có thể nhận ra tất cả tội lỗi của họ. Tôi không biết bao năm trường tôi chối từ sự hiện hữ của Thiên Chúa. Tôi nguyền rủa, xúc phạm tới Người… tôi đã ném đá vào Đức Chúa…
Tôi là một tội nhân nặng nề, một đại phạm nhân.Tôi ở trong tăm tối hoàn toàn và rất gần với đáy vực thẳm mà tôi đã rơi xuống, nếu lòng thương xót của Thiên Chúa không kéo tôi lên.
Tôi có một ngừoi vợ đạo hạnh và rất yêu tôi.Bạn không thể tưởng nổi nàng đã phải đau khổ thế nào về tính độc dữ nơi tôi.Tôi đã gây cho nàng sự nhục nhã và tuyệt vọng.một mình Thiên Chúa biết được nàng đã đau khổ đến độ nào vì tôi.
Nhưng nàng muốn cứu vớt tôi.
Với một niềm tin tưởng và trông cậy mạnh mẽ, nàng cầu cùng Đức Mẹ cho tôi được ơn trở lại, đăc biệt bằng cách đọc kinh Mân Côi. Về phần tôi, nàng luôn luôn van xin tôi cầu nguyện, cùng nàng đi dự lễ ngày Chúa nhật, lãnh nhận Thánh Thể hoặc ít là cùng đi với nàng một lần trong chuyến hành hương tới một đền thánh Đức Maria. Nhưng nàng càng van xin thì tôi càng trở nên cộc cằn, thô lỗ. Cuối cùng tôi hứa sẽ đi hành hương một chuyến, chỉ để thoát khỏi những lời van xin của nàng. Dĩ nhiên tôi nghĩ rằng chẳng có nghĩa gì, và khi nhẩm tính thấy ngày đã hứa tới gần, tôi càng chế diễu, hành hạ nàng hơn nữa.ngày 17 tháng 9 năm 1970, tôi đi với nàng tới một nơi hành hương nhỏ, nơi được kể lại là Mẹ Thiên Chúa đã hiện ra. Đó là Montichiari Fontanelle.
Tôi khinh khỉnh tiến vào nhà nguyện.
Tôi thật là ngạc nhiên khi thấy mình thình lình đưngs sững trước tượng Thánh Mẫu cao khoảng 2 mét.Bị hút hồn, tôi vẫn đứng yên.Tôi vói với các bạn sự thật là tôi chưa bao giờ thấy một tượng Đức Maria đẹp đến thế.Tôi bị kích động sâu xã vì vẻ hiền dịu toát ra từ đôi mắt Mẹ Đức Kitô.Đôi mắt mẹ hiền dịu và rất u buồn như muốn nói với tôi.Đôi mắt thật sống động, đầy yêu thương và dịu dàng nhân hậu.tôi cảm nhận một cái gì đó không thể diễn tả được từ đôi mắt ấy rót vào trái tim. Tôi cảm thấy một sự khác lạ xảy ra trong cong người tôi, một ý tưởng nảy sinh trong tâm trí tôi: không một nghệ nhân nào đã có thể tạc được một pho tượng như thế, nếu không được ơn siêu nhiên trợ giúp.
Đôi mắt của pho tượng này là đôi mắt một con người đang sống thực và lúc nào cũng như đang dõi theo tôi. Tôi muốn chạy trốn khỏi đôi mắt ấy, tôi cảm thấy mình thật bất xứng! Nhưng đi dâu tôi cũng thấy đôi mắt ấy dõi theo tôi. Thình lình tôi ý thức rằng hai đầu gối tôi bủn rủn yếu nhược.Tôi không biết sự thể sảy ra thế nào, nhưng bỗng nhiên tôi thấy mình quỳ phập xuống ở ngay cửa ra vào nhà nguyện và vai trái dựa vò của nhà nguyện.Tất cả bản tính kiêu hãnh củ tôi, long tự ái của tôi đổ xụp.Trong tận thẳm cung linh hồn tôi đã nhỏ những giọt lệ đau đớn.
Tôi cảm nghiệm một điều gì rất lạ lung đã xảy ra trong tôi đến độ tôi không thể hiểu cũng không thể giải thích được.Trước tiên, đó là một cuộc đấu tranh kinh khủng chống lại tiếng gọi của Thiên Chúa và tình mẫu tử yêu thương của Đức Mẹ Hồng Nhiệm.Trong suốt cuộc chiến này, đôi mắt Mẹ vốn đầy yêu thương và hiền dịu, sang láng và bình an, thế mà lúc này bỗng nhiên buồn phiền và đầy đơn đau. Hai giọt lệ lớn trào ra từ đôi mắt và chảy xuống khuân mặt Mẹ. Tôi không thể giải thích điều gì tôi cảm nhận được trong khoảnh khắc này, tôi chỉ có thể nói rằng: Tôi nhìn thấy toàn bộ cuộc đời quá khứ trôi qua, nhanh như một tia chớp, đó là một quá khứ đen tối và xấu xa. Tôi cảm thấy xấu hổ và hối hận không thể tả được.Tôi nói thực với các bạn là trong suốt cuộc đời, tôi chưa bao giờ bị kích động đến như vậy.cùng lúc đó, tôi cảm thấy rằng tội lỗi tôi đã được tha. Tôi cảm nhận ơn phúc và tình yêu của Thiên Chúa, niềm vui khôn tả, sự bình an và một sự sống mới tràn vào trong tôi. Như thể tôi được nhận chìm trong tình yêu từ mẫ
u vô biên của Mẹ Hồng Nhiệm.
Như một tạo vật mới, tôi ra khỏi nguyện đường.
Trước hết, tôi đã không nói năng gì với vợ yêu quý của tôi. Trong suốt những ngày sau đó, tôi khám phá ra Thiên Chúa một cách mơi lạ, nhất là lòng thương xót vô bờ và tình thương yêu của Người. Tôi cũng đi xưng tội và rước lễ, tôi càng được gia tăng niềm hạnh phúc nội tâm. Người vợ đức hạnh yêu dấu của tôi, sớm nhận ra sự thay đổi hoàn toàn trong nội tâm tôi.
Từ đó tới nay, chúng tôi đã nhiều lần cungd nhau trở lại Fontanelle để cảm tạ Mẹ luôn mãi”.
VII. THÁI ĐỘ CỦA GIÁO QUYỀN
Đức ông Abate Rossi hiện đang hưu dưỡng ở Monitichiari, ngài đã làm cha sở giáo xứ Montichiari suốt 22 năm (1949-1971).Hiện nay cha đã 77 tuổi và vẫn được dân chúng cũng như hàng giáo sĩ quý trọng.Ngài cũng được trọng kính như một linh mục thánh thiện, đạo đức. Trong suốt cuộc phỏng vấn ngày 8 tháng 12 năm 1973, ngài đã tuyên bố rõ ràng:
“Khi Đức Mẹ hiển ra ở nhà thờ Montichiari ngày 8 tháng 12 năm 1947, trước sự hiện diện cảu hang ngàn người, thì tôi chưa có mặt ở đay. Thời gian này tôi đang làm cha sở xứ Gradone, nhưng tôi đã được nghe biết về các cuộc thần hiện.
Tháng 7 năm 1949, tôi được cử tới Montichiari và tôi đã làm cha sở họ đạo này trong suốt 22 năm, tới năm 1971. Một cách nhanh chóng, tôi được các linh mục và dân chúng ở Montichiari kể lại cho nghe đầy đủ từng chi tiết về 3 phép lạ đã xảy ra trong cuộc thần hiện ngày 8 tháng 12 năm 1947.
Trong lần hiện ra đs, một em bé trai bị tê liệt, do di chứng bệnh sốt tê liệt, đã được chữa lành trong nhà thờ chánh tòa. Một cô gái khoảng 26 tuổi, bị đau đớn suốt 12 năm vì bệnh lao phổi trầm trọng và từ 9 năm qua đã không thể nói được một lời, cũng đã được chữa lành. Cô gái này sau đó nhập tu trong một tu viện.
Phép lạ thứ ba và lớn lao, vĩ đại nhất trong lần hiện này, không xảy ra trong nhà thờ, nhưng tại một tư gia: một phụ nữ 36 tuổi, không bình thường cả về than xác cũng như tâm trí, đã được chữa lành thật bất ngờ và hoàn toàn. Đang khi lần hạt Môn Côi, chị dau của cô buột miệng kêu lên: “Lạy Mẹ kính ái, nếu Mẹ thực sự hiểna lúc này trong nhà thờ Montichiari, thì xin Mẹ vui long cứ chữa cô gái khốn khổ này đi!”.Sau này tôi nghe kể nhiều chi tiết về điều này.
Đức ông Rossi nói: “Tôi xác tín rằng những cuộc hiện ra này là có thực”.
Trong giữa nhà thờ dưới vòm mái, tôi cho đặt các ghế dài vào nơi mà ngày 8 tháng 12 năm 1947 Đức Mẹ đã đi chân trần trên nền nhà. Tôi không chút nghi ngờ về sự đáng tin cậy của các lần Đức Mẹ hiện ra, nhưng tôi cũng lo rằng những người thành tín, nhất là các phụ nữ, sẽ hôn lien mien trên các dấu vết đó. Các ghế dài ấy là để cho dan chúng quỳ, nhưng cũng để ngăn những người muốn hôn những chỗ Đức Mẹ đã đặt chân tới. Sau này, theo ý của Đức giám mục, những ghế đó được dời đi nơi khác. Nhưng ở chính nơi mà Đức Mẹ đã hiện xuống thì tôi đặt một bình bông lớn.
Tôi cũng bảo tạ một pho tượng Thánh Mẫu theo sự mô tả của chị Pierina.
Tôi tìm được một nhà điêu khắc ở Ortisei (Sankt Ulrich) gần Bozen, cha của 8 đứa trẻ và là một tín hữu ngoan đạo, gia đình ông rất có khiếu âm nhạc. Tên ông là Cajo Perathonner.Tôi nói với ông rất có khiếu âm nhạc.Tên ông là Cajo Perethonner. Tôi nói với ông: ‘Tạc cho tôi một pho tượng Thánh Mẫu theo sự mô tả và đẹp hết sức có th. Xin quỳ mà tạc tượng như các nghệ nhân thiên phú cổ xưa đã làm.Fra Angelico và những nghệ nhân khác đã nói rằng nhiều lần họ đã quỳ khi vẽ những bức ảnh.Thế nào đi nữa thì pho tượng Thánh Mẫu cũng là một pho tượng Mỹ miều tuyệt trần’.
Tôi không biết ông ta có thực sự quỳ khi tạc pho tượng Thánh Mẫu này không. Nhưng về sau khi tạc xong pho tượng, ông ta nói một cách sung sướng rằng chưa bao giờ ông tạc được một pho tượng Đức Maria đẹp đến thế.
Pho tượng này được đặt thay vào chỗ tượng Đức Mẹ Lộ Đức, ngay trước phía pahir nhà thờ Montichiari và đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến dân chúng.Tôi đã chứng kiến điều này suốt hơn 20 năm qua, khi tôi làm cha sở giáo xứ này.Nhiều, thật nhiều người đã sấp mình xuống trước tượng Thánh Mẫu rất xinh đẹp này, nhiều người đã cố gắng kiềm chế nỗi xúc động mà không được.Tôi đã thấy nhiều ngừoi vừa cầu nguyện vừa khóc, tôi cũng được chứng kiến những cuộc trở lại rất lạ lùng.
Chị Pierina tuyên bố sau đó rằng: “pho tượng này rất đúng và xinh đẹp, nhưng không bao giờ có thể sánh nổi với nét tuyệt mỹ không thể tả và nét từ mẫu sâu xa của Đức Thánh Mẫu thật cả”.
Chị cũng thuật lại rằng: “Trước khi được đặt cách trịnh trọng phía ngoài, bên cạnh bàn thờ ở thánh đường Montichiari, thì pho tượng đã được rước đi đây đi đó như một khách hành hương qua khắp giáo xứ rộng lớn Montichiari. Trong trường hợp này,phép lạ sau đây đã xảy ra.
Một người đàn ông đã chịu đau đớn suốt một thời gian dài vì chứng bịnh nhiễm nặng, tai sưng tấy lên. Lúc đầu, ông ta lấy một nắm bong chạm đến pho tượng rồi đút vào tai bị đau. Trong khi ấy, ông tha thiết, sốt sắng nguyện xin và hết lòng tin tưởng. Lúc sau, ông ta lấy miếng bong ra thì ở đấy có một miếng xương nhỏ đầy mủ. Từ đó, ông ta được hoàn toàn chữa lành”.
Đức ông Rossi tiếp tục bản tường thuật của ngài:
“Đức giám mục Brescia tương lai, Đức ông Giacinto Tradici, không tỏ hẳn một thái độ nào rõ rệt trong việc xem xét các cuộc thần hiện, nhưng cái ấn tượng riềng của tôi trải suốt nhiều năm và trong nhiều cuộc nói chuyện với ngài, thì tôi cho rằng ngài nghĩ rằng các cuộc thần hiên đó là thực. Như trong một lần viếng thăm giáo xứ của tôi năm 1951, ngài đã giảng một bài trong nhà thờ chánh tòa đông nghẹt ngừoi: “Chúng ta chưa có một bằng chứng nào tuyệt đối chắc chắn rằng các cuộc thần hiện có tính cách siêu phàm, nhưng chúng ta đã thấy có rất nhiều sự kiện siêu nhiên xảy ra”.
Đức giám mục Tradici cugnx chỉ định một hội đòng điều tra tất cả các tình huống của các cuộc thần hiện. Nhưng tôi tin rằng, lời đức ông Rossi, hội đồng điều tra này đã không àm hết bổn phận, ngay từ khi vừa bắt đầu, hội đồng đã có thành kiến phủ nhận sự kiện vì:
1. Không phép là nào được nghiên cứu tỉ mỉ kỹ càng.
2. Không một nhân chứng nào được thẩm vấn.
3. Viên bác sĩ tuyên bố rằng Pierina Gilli bị bệnh tâm thần và có ác ý làm mất tiếng tôn giáo.
Trong nhận định cuối cùng, chị Pierina Gilli nói: “Trong cuộcckieemr tra giám định y khoa, tôi bị hỏi về những bệnh cũ. Vì thế tôi đã thuật lại rằng, có một lầ tôi bị viêm thận rất đau đớn và tôi đã phải uống thuốc an thần. vị bác sĩ sau đó đã phán quyết là tôi bị nghiện ma túy. Báo cáo y khoa này là báo cao duy nhất được hội đồng giám định chấp nhận là đúng.Bản y chứng của một bác sĩ khác, đó là bác sĩ giám đốc bệnh viện tâm thần ở Brecia, giáo sư Onarti, lại bị bác bỏ. Ông đã khám bệnh cho tôi hết sức cẩn thận và đi tới kết luận rằng, sức khỏe hoàn toàn tốt và bình thường!”
Đức ông Rossi tiếp tục:
“Tôi biết rằng chị Pierina có đệ một bản tường trình lên Đức Giáo Hoàng Pio XII, về tất cả những sự việc có lien quan đến các cuộc thần hiện, nhưng hội đồng giáo sĩ quanh ngài chận lại, bản tường trình không đến được tay ngài.
Cũng có những người không ưa chị Pierina, những thành viên của hội đồng trước đây đã chết hết, trừcos một người còn song.Nhưng chị cũng có nhiều thân hữu.tôi muốn nhấn mạnh là đức giám mục đáng kính Giacinto Tradici nghĩ rằng các cuộc thần hiện là có thực, nhưng ngài cũng sợ những kẻ thù nghịch. Nhân thể tôi cũng nhắc lại rằng ngài là người bạn than thiết và là đồng hương của đức hồng y Roncalli, sau này là Đức Giáo Hoàng Gioan XIII.
Tôi có cảm tưởng rằng đức giám mục đương lim Brescia, đức cha đáng kính Luigi Morstabilini cũng đã suy tư nhiều về vấn đề này, nhưng ngài cũng sợ ngừoi ta chống đối mạnh mẽ. Vì đôi khi đã có những bích chương bằng tiếng Ý, Pháp và Đức dán ở tất cả các cửa ra vào nhà thờ chính tòa, nhân danh đức giám mục chống lại các cuộc thần hiện của Đức Maria, nhưng chúng không hề có một chữ kỹ nào, là yếu tố cần thiết bậc nhất trong một vấn đề quan trọng như thế. Tôi không hiểu tiếng Đức, nhưng tôi vấn nói rằng bản dịch Đức ngữ này rất dở và khác nghĩa vì có dùng đến hai lần tiếng ‘Thờ lạy Đức Maria’.
Tôi cũng phải thêm rằng: trong một cuộc viếng thăm vào ngày mồng 5 và mồng 6 tháng Giêng năm 1973, khi đức giám mục ở đay thì các bích chương này được gỡ khỏi tất cả các cửa nhà thờ, nhưng khi ngài vừa rời khỏi nơi này thì các bích chương đó lại lập tức được dán lại. Tại sao vậy?
Đó là một chứng cớ, viện phụ Rossi nói rằng không có một lệnh chính thức hợp pháp nào của đức giám mục Brescia cấm cản người ta đến viếng Montichiari và Fontanelle. Trong cuộc viếng thăm giáo xứ, đức giám mục Brescia không đề cập gì đến các cuộc thần hiện hết.Theo tôi đó là một dấu chỉ ngài suy xét nhiều lắm về việc đó. Tôi chắc chắn rằng ngài đã nhận được một bản tường trình về phép lạ mà bà Oliva Sudiro-Zanotto ở Malavicina gần Mantua, đã được chữa lành trong mọt đêm vào năm 1968, bằng nước từ giếng Fontanelle. Bà đã phải đau đớn suốt 42 năm vì căn bệnh bội nhiễm da trầm trọng. Cả hai người con của bà, một là linh mục chính xứ, một là bác sĩ, đã có gắng trong nhiều năm trời chữa bệnh cho mẹ mà không thành công, đều đã trình lên đức giám mục tất cả các chi tiết có liên quan. Vị bác sĩ đã tuyên bố rằng ông phải nhìn nhận đó là một phép lạ, bởi vì y học đã không phải là trường hợp duy nhất mà đức giám mục được đệ trình”.
Kết thúc cuộc đối thoại với chúng tôi, Đức ông Abate Francesco Rossi tuyên bố một cách nghiêm chỉnh, như ông già Simeon rằng:
“Điều này có thẻ làm cho các kẻ chống đối các cuộc thần hiện điên tiết, nhưng những sự kiện này chống lại chúng. Hàng ngàn khách hành hương tới Montichiari và chống lại chúng. Hang ngàn khách hành hương tới Montichiari và nhất là tới Fontanelle, và các dấu chỉ, các phép lạ đã sảy ra ở đây. Dấu lạ trên bầu trời, chữa khỏi qủy ám, chữa lành các bệnh tật và nhất là thật nhiều và tự phát các cuộc trở lại.Điều này đối với tôi là dấu chỉ không thể sai lầm hơn hết rằng các cuộc thần hiện là có thực.Dân chúng cũng cầu nguyện và làm việc đền tội ở đây nhiều lắm”.
Khi chúng tôi lại đến thăm ngài lần nữa vào ngày 14 tháng 8 năm 1973, thì ngài nói với chúng tôi: “Tôi chỉ có thể nhấn mạnh rằng tôi tin vào các cuộc thần – hiện một người 22 năm làm linh mục chính xứ ở một nơi như thế, hẳn phải là người có nhiều kinh nghiệm, là người đã được mắt thấy tai nghe rất nhiều điều. Trước tiên tôi đã đặt tạc một pho tượng Thánh Mẫu và sau đó tôi đặt tượng này trong nhà thờ Montichiari và cs nhiều kinh nghiệm về ảnh hưởng kỳ diệu lạ lung của Mẹ, nhiều ơn huệ lớn lao và các cuộc trở lại. Sau này khi Thánh Mẫu hiên ra ử Fntanelle, tôi đã xây dựng một nhà nguyện nhỏ ở đáy. Con trai của điêu khắc gia Ortesei (Sankt Ulrich), thung lũng Grodner, Cajo Perathonner, tạc một tượng Thánh Mẫu Lơn cho nhà nguyện. Tôi đặt tạc pho tượng và theo ý Đức Mẹ bảo người ta làm một mái che phía trên tượng để cho những người hành hương và các khách, và một bể tắm thuận tiện ở giếng nước. Những sự kiện đó là bằng chứng rằng tôi tin các cuộc thần hiện của Đức Maria. Niềm tin tưởng của tôi được củng cố và tăng
triển mỗi ngày vì nhiều phép lạ, nhưng cuuocj trở lại lạ lung và biết bao ơn phúc bề trong người ta đã nhận được.
Tôi phải nhấn mạnh điểm này là, bản thân Đức Mariaức nguyên giám mục Brescia, Đức Mariaức cha đáng kính Giacinto, rất xác tín rằng các cuộc thần hiện là có thực.
Các cuộc hiện ra bắt Đức Mariaầu năm 1947, thì Đức cha Tredici qua đời năm 1964. Mười bảy năm trời- một thời gian dài: thời gian đủ để có một quyết định về một việc nào đó. Nhưng thật là điều đáng tiếc khi ngài đã không đưa ra một phán quyết nào chống lại những kẻ thù hùng mạnh của ngài.
Chị Pierina thêm: “Một lần, đức giám mục đáng kính Tredici đã Đức Mariaậy tôi trình ngài về những lần thần hiện. Rồi ngài bắt tôi đặt tay trên phúc Âm mà thề. Có lã ngài đã không bắt tôi thề như thế nếu như ngài không tin tôi, hay nghĩ tôi không phải bắt tôi thề như thế nếu như ngài không tin tôi, hay nghĩ tôi không phải là người quân bình. Ngài luôn luôn rất tốt lành và nhân hòa với tôi”.
Đức ông Rossi cũng bảo chúng tôi rằng các đức giám mục khác, tất cả những vị đã tới giáo phận Brescia, đều nhận ra rằng các cuộc thần hiện của Đức Maria ở đây là có thực.
1. Đức cha Giacinto Tredici, đã qua đời năm 1964,
2. Đức cha Bosio, giám mục Chieti,
3. Đức cha Del Signore, giám mục Pesaro. Ngài mời chị Pierina đến thăm ngài 2 lần trong cuộc hành hương tới Loretto và xin chị làm bản tường trình cho ngài về tất cả mọi chi tiết. Ngài cũng đã qua đời.
4. Đức cha Guglielmo Bosetti, giám mục Fidenza (Parma), đã qua đời.
5. Đức cha Almici, giám mục Alessadria, ngài hiện còn sống. Chúng tôi vốn là bạn học và cẫn đang là bạn của nhau.
6. Đức giám mục Fatima, Joao Pereira Venancio, vị tiền nhiệm của Đức giám mục Fatima đương vị.
Trong cuộc đại hội ‘Đạo binh xanh’ ở Roma năm 1973, được hỏi về các cuộc thần hiện Pierinaử Montichiari, ngài tuyên bố: “Phải, tôi đã tới Montichiari khi ‘Lâu đài Đức Maria’ được làm phép dâng hiến năm 1965. Tôi cử hành thánh lễ trong nhà thờ chánh tòa, nhận phần lúa mì và tôi đã đem theo về Fatima, và với bánh thán làm từ số lúa mì này, tôi đã cho nhiều ngàn khách hành hương, các tu sĩ và chủng sinh rước lễ”. Ngài cũng nhìn nhận rằng các cuộc hiểna là có thật và xác nhận trong suốt cuộc đối thoại ở Roma.
Đức Thánh Cha Pio XII.Cho phép chị Pierina triều kién riền ở lâu đài Gandolfo ngày 9 tháng 8 năm 1951.Chỉ có một người bạn cùng đi với chị và một vị vọng ở Roma được thuận cho tham Đức Mariaự đuọc tiếp kiến riêng này.Chị Pierina được giới thiệu với Đức Thánh Cha như là người được thị kiến ở Montichiari. Sau một chút suy nghĩ, ngài nói rất hứng khởi: “A, phải rồi, cha nhớ ra rồi! Nhân chứng tới từ Montichiari đã được báo cho chúng ta”. Rồi mỉm cười nhân hòa ngài hỏi chị Pierina: “Hãy nói cha nghe, ái nữ đáng mến, từ khi con được thấy Đức Mẹ hiện ra thì con có trở nên người tốt hơn không?”
Với câu hỏi không ngờ trước này, chị Pierina thực bối rối, lúng túng và không thể thốt ra một tiếng, chị gật đầu thưa “Thưa có!”.
Đức Thánh Cha đặt hai tay trên chị và nói cách ôn tồn: “Hãy hét sức can đảm, con thân yêu và hãy cố gắng sống theo hồng ân lớn lao và kỳ diệu này! Vì vậy, bây giờ cha đặc biệt ban phép lành Tòa Thánh cho con”. Rất trong trọng, ngài chúc phúc lành cho chị, đặt tay trên đầu chị lần nữa và cho chị hôn nhẫn Giáo Hoàng có hình ngừoi đánh cá của ngài.
Cuối cuộc tiếp kiến, ngài cúi xuống trên chị Pierina đang quỳ gối và nói chị cách khiêm tốn: “Xin cong cũng cầu nguyện cho cha nữa!”
Cử chỉ đó không làm ta cảm động lắm sao! Khiêm tốn biết bao, Đức Giáo Hoàng xin chị Pierina cầu nguyện cho! Một vị coa quyền phán đoán trên hết về những ngừoi khác lại cũng đã tin chị.
‘Hoa hồng mầu nhiệm’-Mẹ Giáo Hội
Thánh Mẫu nói ở Montichiari ngày 13 tháng 7 năm 1947: Đây là ước muốn của Mẹ là ngày 13 tháng 7 hàng năm phải được cử hành để tôn vinh ‘Hoa hồng mầu nhiệm’, điều đó cũng có nghĩa là “Mẹ là Mẹ cảu thân mình mầu nhiệm Đức Kitô nghĩa là Mẹ Giáo Hội”. Điều đó cũng được thấy trên mẫu ảnh mà Đức Mẹ với chữ khắc ‘Hoa hồng mầu nhiệm’ và mặt bên kia là một thánh đường với vòm cung và chữ khắc ‘ Maria, Mẹ Giáo Hội’.
Lòng thành kính Đức Mẹ Hoa hồng mầu nhiệm có thể truy nguồn từ những thế kỷ đầu của Kitô giáo. Giáo hội Đông phương trong một thánh thi nỏi tiếng về Đức Mẹ có câu ‘Akathistos Paraclisis’ – đó là một kiểu lần hạt dân chúng quen hát – lời khẩn cầu ‘Maria Hoa hồng mầu nhiệm’, nghĩa là Hoa Hồng Nhiệm Lạ từ đó tỏa hương thơm tuyệt vời, chưa từng bao giờ có là Đức Kitô.
Trong kinh cầu Loretto có lời ‘Đức bà như hoa hường mầu nhiệm’ vậy.
Trong nhà thờ hành hương ‘Maria Rosenberg’ thuộc giáo hận Speyer(nước Đức), có một bức ảnh phép lạ ‘Hoa hồng mầu nhiệm’ được tôn kính.Những chứng cứ từ năm 1738 đã minh chứng điều đó. Dưới bức ảnh phép lại có vẽ: một bông hồng trắng, một bông hồng đỏ và một bông hông vàng. Trong vòng hào quang của bức tượng bên phải và bên trái có vẽ 13 bông hồng vàng. Một ngẫu nhiên trùng hợp lạ lung với ước muốn của Đức Nữ Ở Montichiari, mà trong tương lai vào ngày 13 tháng 7 phải được tôn kính, ca ngợi là ‘Hoa Hồng mầu nhiệm’.
Chúng ta cũng thường thấy tước hiệu ‘Hoa hồng mầu nhiệm’ xuất hiện trong những thong điệp, tong thư của Đức Giáo Hoàng và trong sự tôn kính có tính phổ quát đối với Đức Maria.
(Còn Tiếp)