Đức Thánh Cha Phanxicô đã cảnh báo hết lần này đến lần khác rằng chúng ta đang trải qua một Thế chiến thứ ba từng phần. Tương tự như vậy, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Antonio Guterres gần đây đã nói: “Chúng ta không thể, chúng ta không được trở nên tê liệt trước những hành vi vi phạm kinh khủng và lặp đi lặp lại đối với luật nhân quyền và nhân quyền quốc tế,” và cam kết các cơ quan của Liên Hiệp Quốc hành động để ngăn chặn, xác định và ứng phó với những vi phạm nhân quyền. Với những năm kinh nghiệm làm việc tại Liên Hiệp Quốc và sự nghiệp ngoại giao, Đức Hồng Y đánh giá thế nào về “bầu khí” toàn cầu vào thời điểm này? Những gì chúng ta đang thấy nguy hiểm đến mức nào?
Có quá nhiều sự dửng dưng trước thực tế rằng việc giải trừ quân bị là cần thiết. Hậu quả của việc không giải trừ vũ khí là rất nguy hiểm, đến nỗi việc thông tin về chúng phải trở thành trách nhiệm. Thực tế, giả thuyết rằng một số vũ khí nguyên tử có thể được sử dụng, như đã bị đe dọa, sẽ khiến hành tinh này trở thành sa mạc và chúng ta không biết trong bao lâu.
Vì điều này, cần phải áp đặt một quyết định đạo đức trên nó, cụ thể là cần phải cấm bất kỳ loại vũ khí nào mà chúng ta không biết tác dụng của chúng, trong khi những khiếm khuyết mà chúng ta biết đã xác nhận bản chất cực kỳ nguy hiểm của chúng. Gia đình nhân loại không biết những hậu quả mà việc sử dụng những vũ khí này có thể gây ra, và do đó chúng ta không thể chấp nhận chúng. Điều này tạo ra một bầu khí sợ hãi và căng thẳng. Do đó, cần phải giáo dục công chúng, tạo ra một nền văn hóa chung nhận thức được những hậu quả bi thảm của chiến tranh. Bạo lực tạo ra thảm họa ở khắp mọi nơi, nhưng sự tàn phá do vũ khí nguyên tử gây ra còn tồi tệ hơn. Vì vậy, điều rất quan trọng là tất cả chúng ta phải cố gắng hết sức để giúp mọi người nhận thức được điều này.
Với các cuộc chiến tranh, đặc biệt là ở Thánh Địa và Ucraina, Đức Hồng Y có thấy một con đường hòa bình để giải quyết các cuộc xung đột, thay vì tiếp tục ném bom không? Từ kinh nghiệm hàng chục năm, đặc biệt là nhiệm kỳ lâu dài với tư cách là Quan sát viên thường trực của Tòa Thánh tại Liên Hiệp Quốc ở Genève, Đức Hồng Y có thấy một cách tiếp cận nào có thể dùng làm hình mẫu chưa? Có những công cụ, biện pháp hoặc mô hình nào chưa được khám phá mà lẽ ra phải có không?
Đây là một chương khá phức tạp và khó diễn đạt, nhưng điều cơ bản là phải học được điều gì đó từ quá khứ. Chiến tranh thế giới thứ nhất đã gây ra một số lớn nạn nhân, một thực tế khiến chúng ta phải suy nghĩ về việc sử dụng bạo lực và vũ khí ngày nay. Lập luận cho rằng những vũ khí này được sử dụng để tự vệ đặt ra những câu hỏi mới, như tôi đã đề cập ở trên.
Mặc dù các quốc gia có chủ quyền có quyền bảo vệ người dân của mình, nhưng trước viễn cảnh sử dụng vũ khí sẽ giết chết nhiều người hơn và hủy hoại môi trường, ngoài các lĩnh vực được đề cập, các bên phải xem xét cẩn thận khía cạnh này trong tất cả những gì họ làm. Nếu trong nỗ lực bảo vệ mà mất tất cả thì còn gì để bảo vệ? Chúng ta không biết tất cả hậu quả, tất cả thiệt hại đã gây ra và sẽ kéo dài bao lâu. Chúng ta không biết hết số nạn nhân thường dân có liên quan. Lựa chọn tốt và hợp lý hơn là chuyển từ thái độ sợ hãi sang tin tưởng.
Trong buổi đọc kinh Truyền tin Chúa nhật 03/3, Đức Thánh Cha đã kêu gọi giải trừ vũ khí và kêu gọi các quốc gia chuyển từ tâm lý sợ hãi sang tin tưởng. Theo kinh nghiệm của Đức Hồng Y, làm thế nào lời kêu gọi của Đức Thánh Cha có thể được chấp nhận một cách cụ thể?
Đức Thánh Cha đang thể hiện vai trò lương tâm của nhân loại một cách rất rõ ràng và mạnh mẽ. Tôi cảm thấy rằng tiếng nói hợp lý duy nhất mà chúng ta có vào lúc này khi thảo luận về vấn đề giải trừ vũ khí, các cuộc chiến lớn hay nhỏ, là tiếng nói của Đức Thánh Cha Phanxicô. Đức Thánh Cha đang làm một công việc phục vụ tuyệt vời cho gia đình nhân loại. Bằng cách chỉ ra những hậu quả của những quyết định chính trị thiên về chiến tranh, ngài đang cố gắng ngăn chặn một điều gì đó khủng khiếp xảy ra.
Đức Thánh Cha nhấn mạnh nhiều lần rằng mọi người cần phải ngồi xuống và đối thoại, sử dụng chiến lược ngoại giao hoặc sử dụng cách tiếp cận nói chuyện thông thường. Ngài kêu gọi đặt mọi thứ lên bàn: những phản đối, những khó khăn, những bất công và giải quyết vấn đề bằng cuộc trò chuyện và thỏa thuận hợp lý. Ngày nay, tôi không thấy có sự thay thế nào khác ngoài sự cần thiết phải đối thoại. Tất cả các phương tiện khác đã được sử dụng đều tỏ ra vô dụng. Thực tế, chúng đã cho thấy nguy hiểm hơn dự đoán. Vì vậy, chúng ta không nên ngạc nhiên hay khó chịu trước việc Đức Thánh Cha tiếp tục quay trở lại với sự cấp bách của cuộc đối thoại, thay vì bạo lực.
Theo Đức Hồng Y, sau các cuộc chiến tranh của thế kỷ 20, có sự khôn ngoan hay bài học nào đang bị lãng quên không? Có kết quả nào đó cần được ghi nhớ hoặc áp dụng trong bối cảnh hiện tại của chúng ta không?
Kết quả tốt nhất là không quên những cuộc chiến này, bởi vì rất dễ nói điều gì đó là “của quá khứ”. “Nạn nhân là của quá khứ. Sự hủy diệt là của quá khứ”. Các khía cạnh kinh tế và các mối quan hệ bị phá hủy trong chiến tranh khiến con người mất đi ý thức về đạo đức. La bàn đạo đức bây giờ đã bị phá vỡ. Điều chúng ta học được từ các cuộc chiến tranh trong quá khứ là hậu quả không lường trước được. Hiện có một cuộc chiến tương tự đang diễn ra nhưng nhận thức về thiệt hại gây ra cho các thế hệ sau lại không được tính đến.
Tiếng nói đạo đức của Đức Thánh Cha trong bối cảnh quốc tế là những gì còn lại của sự tỉnh táo của gia đình nhân loại, trong việc cố gắng giải quyết những vấn đề mà chúng ta đang phải đối diện. Có những vấn đề đòi hỏi phải phân tích và thảo luận nghiêm túc, liên quan đến các quốc gia và những người khác nhau. Đây là sự thật. Nhưng phản ứng được đưa ra không phải là phản ứng tức thời bằng vũ lực mà là lời mời gọi phản ứng theo ý thức chung.
Năm 2023, chi tiêu quốc phòng toàn cầu tăng 9%. Từ chương trình nghị sự của Liên Hiệp Quốc về giải trừ quân bị, người ta thấy có mối liên hệ chặt chẽ giữa đầu tư vào vũ khí và chiến tranh. Các cuộc chiến ở Ucraina và Trung Đông đã dẫn đến sự chuyển dịch mạnh mẽ đầu tư sang lĩnh vực quốc phòng. Chi tiêu toàn cầu cho vũ khí chiếm 22% GDP thế giới. Hơn 71 ngân hàng đạo đức đã yêu cầu hệ thống tài chính thay đổi cách tiếp cận của họ và đảm bảo các khoản đầu tư có tính đến các nguyên tắc của Tài chính đạo đức. Liệu nỗ lực và khái niệm đạo đức này có thể giúp kích hoạt việc xem xét lại lợi nhuận từ vũ khí không?
Tôi đã tham gia Hội nghị Giải trừ quân bị của Liên Hiệp Quốc, trong đó có một số phiên họp được dành riêng để xác định những cách thức hữu ích và thiết thực nhằm ngăn ngừa thiệt hại cho mọi người trên thế giới. Nhưng nó không hoạt động. Ý chí chính trị không ở đó để tránh sự mất mát tài nguyên, tiền bạc và thời gian, cũng như không để đầu tư vào việc chống lại việc mạng sống con người bị lãng phí. Nhìn quanh, chúng ta thấy xã hội có rất nhiều nhu cầu, đặc biệt là nhu cầu có trường học ở nhiều nước để giáo dục tạo cơ hội cho những người này phát triển và sử dụng tài năng của mình một cách xây dựng. Chắc chắn một số lớn tiền, công nghệ và nhiều mạng sống con người đã bị mất đi vì lựa chọn đối đầu bằng bạo lực thay vì đàm phán hợp lý. Đó là một cái giá quá cao để trả. Đối với tôi, có vẻ như ngay cả khi tôi không biết những con số chính xác, thì việc sử dụng ngân sách cho vũ khí, chiến tranh và sự tàn phá do ném bom gây ra cũng khá dễ dàng để tạo ra một quỹ quốc tế, sẽ được sử dụng cho mục đích phát triển. Quỹ này sẽ được sử dụng để giúp các quốc gia và những người bị bỏ lại phía sau, những người không được tiếp cận với y tế, giáo dục và công nghệ, vốn được cung cấp từ những nguồn lực này. Nó sẽ giúp những người có hoàn cảnh khó khăn bắt kịp và tạo điều kiện cho họ có lối sống hợp lý, giúp giải quyết vấn đề nạn đói và bảo vệ họ khỏi những đại dịch và bệnh tật tiềm tàng.
Chắc chắn những cuộc chiến kịch tính ở Ucraina và Thánh Địa đã thu hút sự chú ý của thế giới. Tuy nhiên, Đức Thánh Cha, ngay cả khi không ngừng kêu gọi cho cả hai, vẫn nhớ đến tất cả các cuộc chiến bị lãng quên trên khắp thế giới, đặc biệt là Myanmar, Yemen, Cộng hòa Dân chủ Congo, Ethiopia. Làm thế nào mà việc “ưu tiên” trên toàn cầu hiện nay lại rời bỏ các quốc gia đau khổ khác này? Phải làm gì để đảm bảo họ không bị “lãng quên” và cũng được ưu tiên nỗ lực hướng tới hòa bình, hoặc ít nhất là bảo vệ nhân quyền và nhân phẩm?
Rõ ràng là có một nhóm các quốc gia được quan tâm và nhóm khác không được. Nhưng tự bản chất con người có giá trị, không phụ thuộc vào việc họ đến từ đâu hoặc ở đâu. Khi còn làm Sứ thần ở Ethiopia và Eritrea, tôi đã trực tiếp nhìn thấy việc một số quốc gia không được ưu tiên quan tâm như thế nào. Cộng đồng quốc tế không mấy quan tâm đến thực tế là giữa hai bên đang diễn ra một cuộc chiến khiến hàng chục ngàn thanh niên thiệt mạng. Tôi đã nhìn thấy những thi thể tại biên giới nơi họ đang chiến đấu. Và thực tế này có liên quan đến một thức tế khác, yếu tố lớn hơn. Cụ thể là một số người hoặc một số quốc gia đã thu hút toàn bộ sự chú ý của truyền thông và không để lại nhiều khoảng trống cho những mối lo ngại khác xuất hiện. Điều này cũng thường xảy ra vì đôi khi những cuộc chiến nhỏ này là những cuộc chiến tranh ủy nhiệm nhân danh các nước lớn hơn; và do đó, các nước lớn hơn không quan tâm đến việc họ được chú ý. Có xung đột này; những lợi ích này xung đột. Một lần nữa, tôi thấy rằng tiếng nói của Đức Thánh Cha là người duy nhất chỉ ra vấn đề, dù họ ở đâu. Đức Thánh Cha đưa ra lời khuyến khích để nâng đỡ và giúp đỡ những người bị loại bỏ này vì niềm tin của ngài rằng con người là thánh thiêng, một niềm tin dành cho những người có đức tin.
Chúng ta là Kitô hữu, và thế giới Kitô giáo đang có một cuộc xung đột khủng khiếp. Điều đó có nghĩa là hiệu quả niềm tin của chúng ta không mở rộng ra toàn bộ thực tế xung quanh chúng ta. Vì điều này, chúng ta cần nhớ lại những gì Đức Thánh Cha đã viết trong thông điệp Fratelli Tutti. Tất cả chúng ta đều là anh chị em và có một gia đình nhân loại. Các nhà lãnh đạo chính phủ và chính trị nói chung không muốn thừa nhận rằng không ai là người chiến thắng về lâu dài. Nỗi đau ập đến với mọi người. Cần phải thừa nhận thực tế rằng điều mà Đức Thánh Cha kêu gọi, điều mà những người thiện chí cùng với ngài kêu gọi, là sự cấp bách phải chấm dứt cuộc chiến, để các bậc cha mẹ không phải đau khổ khi chứng kiến con cái mình bị lãng phí, và tận dụng các nguồn lực thay vì đầu tư vào chiến tranh, thật không may. Điều cần thiết là hướng các nguồn lực này vào việc tạo ra phản ứng ở các nước nghèo, cung cấp cho họ những điều kiện sống tối thiểu, để cuộc sống trở nên dễ chịu và trở thành niềm vui thay vì nỗi buồn.
Đức Hồng Y còn muốn nói thêm điều gì nữa không?
Chúng ta đã nói về sự cần thiết phải tìm ra một mô hình hòa bình mới, đặc biệt ở Trung Đông. Chúng ta cần suy tư về thực tế là tất cả các cách tiếp cận khác nhau đã được thử trong quá khứ đều không thành công. Có lẽ chúng ta nên lưu ý rằng cả người Hồi giáo và người Israel đều là những người tin vào Thiên Chúa, và họ biết rằng giao ước giữa Thiên Chúa và dân tộc đòi hỏi sự trung thành với giao ước này và một mối quan hệ hòa bình tốt đẹp. Vì vậy, có lẽ bắt đầu từ trải nghiệm tôn giáo của những người này, sống ở cùng một nơi, người ta có thể bắt đầu suy tư và chấp nhận một giao ước mới. Thiên Chúa đã lập giao ước với Abraham. Bây giờ, họ có thể xem xét tạo ra một giao ước giữa hai bên, dựa trên niềm tin tôn giáo, điều đó sẽ giống nhau đối với cả hai. Họ có thể sử dụng sự nghiêm túc của cam kết này để tạo niềm tin. Bằng cách ghi nhớ và có khả năng tuân theo truyền thống xa xưa của giao ước này giữa Thiên Chúa và con người, có thể mở ra một kênh liên lạc và đối thoại, cũng như khơi dậy cảm giác tin cậy.
Vatican News