Vào ngày bà Christine bị sát hại trước sự chứng kiến của cậu con trai Eric ba tuổi, ông Michael Morton đang làm việc ở công ty. Cảnh sát vào cuộc điều tra và ông Michael bị bắt giữ.
Những gì xảy ra nhiều năm sau đó được giới truyền thông mô tả là một trong những thất bại lớn nhất trong lịch sử hệ thống tư pháp Hoa Kỳ. Cảnh sát điều tra cho rằng ông chính là người đã ra tay sát hại người vợ thân yêu. Mặc dù cậu bé 3 tuổi mô tả rằng người đã giết mẹ bé không phải là ông Michael, tuy nhiên đối với với các nhà điều tra điều này chưa đủ bằng chứng, thêm vào đó phía gia đình bà Christine cũng chống lại ông, thuyết phục bé ba tuổi rằng ông chính là người đã giết mẹ bé.
Những người duy nhất tin rằng ông Michael vô tội là cha mẹ ông. Ông nhớ lại: “Tôi thấy cha mẹ tôi không thể làm gì được cho tôi. Thật tội nghiệp cho họ”.
Sau phiên toà, ông bị đưa đến một nhà tù với hệ thống an ninh nghiêm ngặt dành cho những tội phạm nguy hiểm. Trong 14 năm đầu tiên của án tù chung thân, ông Michael sống trong nỗi đau oan ức và vạch ra kế hoạch trả thù những người đã cố tình đưa ông vào vòng lao lý. Ông cảm thấy mình có mọi quyền để làm việc này.
Sau này ông chia sẻ rằng không chỉ về phía con người, nhưng ông cảm thấy chính Chúa cũng bỏ rơi ông. Mặc dù đã kêu xin Chúa trong tuyệt vọng nhưng ông không nhận được câu trả lời nào. Rồi một ngày kia, ông cảm nhận dường như phòng giam của ông tràn ngập ánh sáng rực rỡ và ông cảm thấy một niềm vui chưa từng có cho đến thời điểm đó. Ông thú nhận: “Tôi chưa bao giờ có trải nghiệm như vậy. Đây không phải là ảo giác. Tôi không có vấn đề tâm lý, không phải do ảnh hưởng của rượu hoặc ma tuý. Tôi không thể giải thích một cách hợp lý cho điều này. Tôi thấy mình đang ở trong sự hiện diện của Chúa”.
Trong những tháng tiếp theo, ông suy nghĩ rất nhiều về những gì đã trải qua, và quyết định tha thứ cho những người đã làm hại ông và không còn muốn trả thù những người đã đưa ông vào tù. Ông giải thích: “Tôi biết rằng nếu muốn được tha thứ thì tôi phải tha thứ. Chúng ta được mời gọi đối xử với những người khác như chúng ta muốn được đối xử”.
Theo ông, đây không phải là một quyết định tức thời hay dễ dàng, nhưng chúng ta sẽ cảm thấy rất nhẹ nhàng sau khi đã thực hiện. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là mọi thứ trong cuộc đời đều được giải quyết ngay lập tức.
Sau 23 năm bị tù, người ta mới phát hiện ra rằng những bằng chứng thu được tại hiện trường, cả ADN không phải của Michael mà của một người khác, có tiền án về buôn bán ma tuý và trộm cắp. Chính người này mới là kẻ giết bà Christine.
Sau một phiên toà mới, ông Michael được ra tù ngày 4/10/2011, sau 24 năm 7 tháng bị giam giữ. Ông không biết cuộc sống của mình rồi sẽ ra sao. Tuy nhiên, nhớ lại lời luật sư “hận thù và không tha thứ giống như thuốc độc chống lại niềm hy vọng, sẽ làm hại con người”, ông quyết định thực hiện những gì đã được Chúa soi sáng trong khi còn ở trong nhà tù. Tuy nhiên, theo ông, điều khó khăn nhất không phải là tha thứ cho những người đã làm hại mình, nhưng là tha thứ cho những ai đã làm tổn thương người thân của mình. Thực tế, với những bằng chứng chống lại ông, con trai của ông đã sống một cuộc đời đầy uất hận, thù ghét ông, thậm chí còn đổi tên, không muốn gắn bó với tên của ông. Chỉ đến khi ông ra tù, tin vào sự vô tội của cha mình, người thanh niên này mới bắt đầu lại mối quan hệ với ông Michael. Niềm vui của ông sau đó là con ông đã lập gia đình, có con và đặt tên cho con theo tên của vợ ông, Christine.
Năm 2013, ông đã kết hôn với bà Cynthia May Chessman. Bà Cynthia rất hiểu những tổn thương mà ông đã phải chịu đựng trong mấy chục năm ở tù. Cả hai quyết định làm một điều gì đó để giúp đỡ những người rơi vào hoàn cảnh như ông, nghĩa là những người bị kết án oan sai nhưng không đủ khả năng tài chính để tiếp tục con đường công lý cho mình. Cả hai đã tham gia vào “Dự án Vô tội”, một tổ chức hoạt động nhằm đảm bảo các cuộc điều tra được thực hiện một cách chính xác và giúp đỡ những người bị kết án oan.
Vatican News