Brad Miner, trên the Catholic Thing, Thứ Ba, ngày 14 tháng 1 năm 2025, cho hay: Trước khi rời nhiệm sở, Joe Biden sẽ không gặp Đức Giáo Hoàng Phanxicô như đã định. Các vụ cháy rừng ở Los Angeles đã chấm dứt điều đó – hay ít nhất là chúng ta được biết như vậy. Nhưng kế hoạch ban đầu khiến tôi tò mò về những cuộc gặp như vậy và ý nghĩa của chúng. Đó là một lịch sử phức tạp nhưng đôi khi có ý nghĩa quan trọng.
Nếu bạn tìm kiếm trên Internet, bạn có thể sẽ đọc thấy rằng tổng thống đầu tiên đến thăm một vị giáo hoàng là Woodrow Wilson vào năm 1919. Điều đó không đúng, thậm chí không đúng chút nào, trừ khi bạn thêm từ tại chức (sitting). Lúc đó, đúng vậy, Wilson, người đang ở châu Âu sau Thế chiến thứ nhất để tham dự Hội nghị hòa bình Paris (1919-1920), là “người hiện đang chiếm giữ Nhà Trắng” đầu tiên đến thăm Tông điện.
Một sự khác biệt nữa: một số cựu tổng thống đã gặp các vị giáo hoàng (hoặc cố gắng gặp), và các tổng thống đương nhiệm đã gặp những người đàn ông sẽ trở thành giáo hoàng. Trong hạng mục sau này, Franklin Delano Roosevelt đã gặp Bộ trưởng Ngoại giao Vatican Hồng Y Eugenio Pacelli tại nhà riêng của tổng thống ở Hyde Park trong chuyến thăm Hoa Kỳ năm 1936 của Đức Piô XII tương lai. Một cuộc gặp tương tự đã diễn ra tại Rome khi George W. Bush gặp Đức Hồng Y Joseph Ratzinger tại lễ tang của Đức Gioan Phaolô II.
Nhưng trước thế kỷ 20, các cuộc gặp chính thức với một vị giáo hoàng tại Hoa Kỳ sẽ không được chào đón dù chúng khả hữu. Chưa từng có vị giáo hoàng nào vượt Đại Tây Dương cho đến chuyến thăm lịch sử của Đức Phaolô VI tới Hoa Kỳ vào năm 1965. Đức Phaolô cuối cùng đã đến thăm hai mươi quốc gia và là người đầu tiên đi ra khỏi châu Âu. Tại New York, ngài đã gặp Lyndon Johnson tại Khách sạn Waldorf-Astoria.
Nếu Đức Piô XII hoặc Đức Gioan XXIII quyết định là người đầu tiên đến thăm Hoa Kỳ, có lẽ các vị đã không được mời đến Nhà Trắng. Nếu John F. Kennedy thoát khỏi vụ ám sát và giành được nhiệm kỳ thứ hai, tôi ngờ rằng Đức Phaolô VI sẽ được chào đón ở đó. Nhưng trước khi bầu ra vị tổng thống Công Giáo đầu tiên của chúng ta, chủ nghĩa bài Công Giáo còn sót lại đã ngăn cản điều đó.
Nhưng trước cuộc tiếp kiến năm 1919 của Wilson với Đức Benedict XV, không dưới bốn cựu tổng thống đã đến thăm một giáo hoàng khi ở Rome: Martin Van Buren và Millard Fillmore đã gặp riêng Đức Pius IX vào năm 1855. Pio Nono cũng đã gặp Franklin Pierce vào năm 1857.
Ulysses S. Grant đã gặp Đức Leo XIII vào năm 1878, chỉ khoảng một năm sau khi nhiệm kỳ thứ hai của Grant kết thúc. Đây có phải là dấu hiệu ban đầu cho thấy chủ nghĩa bài Công Giáo chính thức đang suy yếu không? Có lẽ vậy.
Sau khi rời nhiệm sở, Theodore Roosevelt muốn gặp Đức Pius X tại Vatican, và vị giáo hoàng đã đồng ý, nhưng với điều kiện là Roosevelt không được triệu tập một nhóm Tin lành đang làm việc để cải đạo người Công Giáo ở Rome. Roosevelt thậm chí còn không biết có một nhóm như vậy, nhưng ông đã bực mình và từ chối. (Một câu chuyện thú vị: Vào năm 1869, gia đình Roosevelt đang thực hiện chuyến du ngoạn vòng quanh châu Âu và đã có cuộc gặp với Đức Pius IX, trong đó Teddy 11 tuổi đã hôn chiếc nhẫn của giáo hoàng!)
Tổng thống mới qua đời Jimmy Carter có vinh dự là tổng thống đầu tiên tiếp đón một giáo hoàng tại Nhà Trắng. Mọi tổng thống sau này đều đã làm như vậy – ngoại trừ Joe Biden, người có nhiệm kỳ tổng thống không trùng với chuyến thăm duy nhất của Francis tới Hoa Kỳ.
Nhưng Biden đã có một số cuộc gặp với Đức Giáo Hoàng Phanxicô tại Vatican. Điều này cũng đúng với các Tổng thống Eisenhower, Kennedy, Johnson, Nixon, Ford, Carter, Reagan, Bush 41, Clinton, Bush 43, Obama và Trump. Những điều từng không thể tưởng tượng được trong nền chính trị Hoa Kỳ đã trở nên rất quan trọng, vì các vị đứng đầu nhành hành pháp của Hoa Kỳ đã tìm kiếm lá phiếu Công Giáo đôi khi khó nắm bắt và thường không thể đoán trước.
Những cuộc gặp gỡ tại Vatican này – hãy thành thật mà nói – thường chỉ là những buổi chụp ảnh. Họ rất thân thiện, và việc hôn nhẫn là chuyện của quá khứ, mặc dù Joe Biden đã nhiều lần suýt hôn Đức Phanxicô theo cách không phù hợp nhất. Nhưng ông ấy làm vậy với tất cả mọi người.
Trong các cuộc gặp giữa Đức Giáo Hoàng Phanxicô và Donald Trump, sự thân thiện thường thấy không che giấu được sự căng thẳng tiềm ẩn phát sinh từ những bất đồng của họ về vấn đề nhập cư – hay như phía Giáo hoàng trong cuộc tranh cãi sẽ nói, là di cư – như thể hàng triệu người từ Châu Phi đến Châu Âu và từ Châu Mỹ Latinh đến Hoa Kỳ là những đàn chim hoặc bướm theo bản năng.
Tổng thống Trump và Giáo hoàng Francis có thể sẽ gặp lại nhau, và – chắc chắn – sẽ có căng thẳng trong phòng.
Không bao giờ có bất cứ căng thẳng nào khi Ronald Reagan và Đức Giáo Hoàng John Paul II gặp nhau, vì họ đã gặp nhau bốn lần. Chưa bao giờ có mối liên hệ chặt chẽ hơn giữa Vatican và Nhà Trắng như khi hai người đàn ông đó cùng nhau ngồi lại với nhau.
Cuộc gặp đầu tiên của họ là vào ngày 7 tháng 6 năm 1982, một năm sau khi cả hai đều sống sót sau các vụ ám sát. Rõ ràng là hai người đàn ông đã gắn kết với nhau vì điều đó, nhưng điều khiến họ gần nhau hơn nhiều – chắc chắn là cuộc chiến chống lại chủ nghĩa cộng sản.
Đức John Paul bị bắn vào ngày lễ Đức Mẹ Fatima. Khi Đức Trinh Nữ Maria nói chuyện với trẻ em vào năm 1917, ngài đã cảnh báo về những gì sẽ xảy ra sau Cách mạng Nga. Karol Wojtyla đã phải đối diện với sự trỗi dậy của chủ nghĩa cộng sản ở Ba Lan, giống như Reagan đã từng đối diện ở Hollywood.
Trên khắp phương Tây, chính sách hậu chiến là kiềm chế chủ nghĩa cộng sản. Nhưng vị tổng thống và giáo hoàng này lại có một kế hoạch khác, mà Reagan đã công khai trong một bài phát biểu tại Notre Dame chỉ sáu tuần sau khi ông bị bắn: “Phương Tây sẽ không kiềm chế chủ nghĩa cộng sản, mà sẽ vượt qua chủ nghĩa cộng sản”. Họ sẽ “gạt bỏ nó như một chương kỳ lạ trong lịch sử loài người mà những trang cuối cùng thậm chí đang được viết”.
Trước khi được bầu làm tổng thống, Reagan đã được truyền cảm hứng từ chuyến thăm Ba Lan năm 1979 của Đức John Paul. Vị Giáo hoàng đã thực hiện điều mà chỉ có thể gọi là một cuộc tấn công trực diện vào chủ nghĩa cộng sản, và điều đó đã chứng minh với Reagan rằng cuộc đối đầu táo bạo với Đế chế Ác quỷ chính là chìa khóa để đẩy nhanh sự sụp đổ của nó.
Như Paul Kengor đã viết: “Giáo hoàng John Paul II đã đến để nhắc nhở những người Ba Lan đồng hương và thế giới rằng có một vị Chúa và họ có quyền tự do tôn thờ vị Chúa đó. Reagan hỏi: ‘Liệu Điện Kremlin có bao giờ trở lại như cũ không? Liệu có ai trong chúng ta (ưu tư) về vấn đề đó không?’”