Đức Ông Robert Sarno, chuyên gia phục vụ trong Bộ Tuyên Thánh suốt 38 năm, sau khi đã là linh mục của giáo phận Brooklyn Hoa Kỳ, có bài viết nhan đề “Saints”, nghĩa là “Các Thánh” được đăng trên web site của Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ. Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Trong năm thế kỷ đầu tiên của Giáo hội, quá trình công nhận một vị thánh dựa trên sự tung hô của công chúng, nghĩa là dựa trên nguyên tắc vox populi, vox Dei – tiếng nói của người dân, tiếng nói của Chúa. Không có quá trình chính thức nào giống với các tiêu chuẩn chúng ta thấy ngày nay. Bắt đầu từ thế kỷ thứ sáu và kéo dài đến thế kỷ thứ mười hai, cần có sự can thiệp của giám mục địa phương trước khi một ai đó có thể được tuyên thánh. Sự can thiệp của Đức Giám Mục bản quyền thường bắt đầu bằng yêu cầu của cộng đồng địa phương xin Đức Giám Mục địa phương công nhận một ai đó là thánh. Sau khi nghiên cứu yêu cầu và tiểu sử viết tay, nếu thấy thuận lợi, Đức Giám Mục thường sẽ ban hành sắc lệnh, hợp pháp hóa nghi lễ phụng vụ và do đó tuyên thánh cho người đó.
Bắt đầu từ thế kỷ thứ mười, án tuyên thánh được tiến hành theo các bước như sau: danh tiếng của người đó lan rộng, có yêu cầu từ người dân xin giám mục địa phương tuyên bố người đó là thánh, và tiểu sử được viết ra để giám mục xem xét. Tuy nhiên, hiện nay, giám mục sẽ thu thập lời khai của những người biết người đó và những người đã chứng kiến phép lạ, và ngài sẽ cung cấp tóm tắt về vụ việc cho Đức Giáo Hoàng để vị mục tử toàn thể Hội Thánh chấp thuận. Sau đó, Đức Giáo Hoàng xem xét nguyên nhân, và nếu chấp thuận, ngài sẽ ban hành sắc lệnh tuyên bố người đó là thánh. Trường hợp đầu tiên được ghi chép về án tuyên thánh do một Giáo Hoàng chuẩn y là khi Đức Giáo Hoàng Gioan 15 vào ngày 31 Tháng Giêng năm 993 tuyên thánh cho Thánh Ulric. Khi Đức Giáo Hoàng Sixtô Đệ Ngũ tổ chức lại Giáo triều Rôma vào năm 1588, ngài đã thành lập Bộ Nghi lễ Thánh. Một trong những chức năng của bộ này là hỗ trợ Đức Giáo Hoàng xem xét các án tuyên thánh. Ngoại trừ một số cập nhật cho phù hợp với giáo luật, từ năm 1588, quá trình tuyên thánh vẫn như vậy cho đến năm 1917 khi Bộ Giáo luật phổ quát được ban hành.
Bộ luật năm 1917 bao gồm 145 điều luật (từ số 1999 đến số 2144) về án tuyên thánh, và yêu cầu phải tiến hành một quá trình giám mục và một quá trình tông tòa. Tiến trình giám mục bao gồm giám mục địa phương xác minh danh tiếng của người đó, bảo đảm rằng có tiểu sử rõ ràng, thu thập lời khai của nhân chứng và các tác phẩm do người đó viết ra. Tất cả những điều này sau đó được chuyển đến Bộ Nghi lễ Thánh. Tiến trình tông tòa bao gồm xem xét các bằng chứng được nộp, thu thập thêm bằng chứng, nghiên cứu án tuyên thánh, điều tra bất kỳ phép lạ nào được cho là đã xảy ra và cuối cùng chuyển án tuyên thánh lên Đức Giáo Hoàng để ngài chấp thuận.
Tiến trình này vẫn có hiệu lực cho đến năm 1983 với việc ban hành Bộ Giáo luật năm 1983 và các chuẩn mực mới cho các nguyên nhân tuyên thánh: Divinus Perfectionis Magister, Normae Servandae in Inquisitionibus ab Episcopis Faciendis in Causis Sanctorum và Sanctorum Mater, hay 2007. Tiến trình sửa đổi vào năm 1983 này cho các án tuyên thánh vẫn có hiệu lực cho đến nay và được trình bày chi tiết bên dưới.
Không có số lượng chính xác những người đã được tuyên thánh kể từ những thế kỷ đầu tiên. Tuy nhiên, vào năm 1988, để đánh dấu 400 năm thành lập, Bộ Tuyên Thánh đã xuất bản “Index ac Status Causarum” đầu tiên. Cuốn sách này và các phần bổ sung sau đó, được viết hoàn toàn bằng tiếng Latin, được coi là chỉ mục chính thức của tất cả các vụ án đã được trình lên Bộ kể từ khi thành lập.
Tiến trình tuyên thánh từ năm 1983 bao gồm các bước sau:
Giai đoạn I – Khảo sát cuộc đời của một ứng viên tuyên thánh ở cấp Giáo phận (hoặc Giáo phận chính thống Đông phương)
Phải mất năm năm kể từ thời điểm ứng viên qua đời trước khi án tuyên thánh có thể bắt đầu. Điều này là để cho phép cân bằng và khách quan hơn trong việc đánh giá trường hợp và để cho cảm xúc của thời điểm người ấy qua đời tan biến. Đức Giáo Hoàng có thể miễn trừ thời gian chờ đợi này.
Giám mục của giáo phận nơi người đó qua đời có trách nhiệm bắt đầu cuộc điều tra. Người thỉnh cầu (có thể là giáo phận, giám mục, dòng tu hoặc hiệp hội tín hữu) yêu cầu giám mục thông qua một người được gọi là Postulator hay cáo thỉnh viên, là người đề nghị mở cuộc điều tra.
Sau đó, giám mục bắt đầu một loạt các cuộc tham khảo ý kiến với hội đồng giám mục, các tín hữu trong giáo phận của mình và Tòa thánh. Sau khi các cuộc tham khảo ý kiến này hoàn tất và ngài đã nhận được ý kiến “nihil obstat”, nghĩa là “không có gì ngăn trở” từ Tòa thánh, ngài sẽ thành lập một tòa án cấp giáo phận cho án tuyên thánh. Tòa án sẽ điều tra về sự tử đạo hoặc cách ứng viên sống một cuộc sống với các nhân đức anh hùng, tức là các nhân đức đối thần về đức tin, đức cậy và đức mến, và các nhân đức cốt yếu về sự khôn ngoan, công bằng, tiết độ và lòng dũng cảm, và những nhân đức khác cụ thể đối với tình trạng sống của ứng viên. Các nhân chứng sẽ được triệu tập và các tài liệu do ứng viên viết và các tài liệu về ứng viên phải được thu thập và xem xét.
Giai đoạn II: Bộ Tuyên thánh
Sau khi cuộc điều tra của giáo phận hoàn tất, tài liệu sẽ được gửi đến Bộ Tuyên thánh. Ứng viên có thể được gọi là “Servus Dei” hay vị “Tôi Tớ Chúa”.
Người thỉnh nguyện cho giai đoạn này, cư trú tại Rôma, dưới sự chỉ đạo của một thành viên trong đội ngũ nhân viên của Bộ. Người thỉnh nguyện sống ở Rôma này cũng được gọi là Postulator hay cáo thỉnh viên ở cấp Tòa Thánh, chuẩn bị một ‘Positio’, nghĩa là một bản tóm tắt bằng chứng tài liệu từ giai đoạn giáo phận để chứng minh việc thực hành đức hạnh anh hùng hoặc sự tử đạo.
‘Positio’ trải qua một cuộc kiểm tra của chín nhà thần học bỏ phiếu về việc ứng viên có sống một cuộc sống anh hùng hay chịu tử đạo hay không. Nếu phần lớn các nhà thần học ủng hộ, thì án tuyên thánh được chuyển lên để các Hồng Y và giám mục là thành viên của Hội đồng thẩm định. Nếu phán quyết của các ngài là thuận lợi, thì vị trưởng Hội đồng sẽ trình bày kết quả của toàn bộ quá trình của án tuyên thánh lên Đức Giáo Hoàng, là người sẽ chấp thuận và ủy quyền cho Hội đồng soạn thảo một sắc lệnh tuyên bố một người là Venerabilis – hay Bậc đáng kính nếu họ đã sống một cuộc sống đức hạnh. Trong trường hợp tử đạo, như trường hợp Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp, ứng viên được tuyên bố là một Beatus hay Chân phước.
Giai đoạn III – Phong chân phước
Đối với việc phong chân phước cho một vị đáng kính, cần phải có một phép lạ được cho là do sự chuyển cầu của ngài, được xác minh sau khi ngài qua đời. Phép lạ cần thiết phải được chứng minh thông qua cuộc điều tra giáo luật thích hợp, theo một thủ tục tương tự như đối với các nhân đức anh hùng. Cuộc điều tra này cũng được kết thúc bằng sắc lệnh thích hợp. Sau khi sắc lệnh về phép lạ được công bố, Đức Giáo Hoàng sẽ ban hành lệnh phong chân phước, tức là cho phép việc tôn kính công khai có giới hạn – thường chỉ trong phạm vi quốc gia, giáo phận, vùng hoặc cộng đồng tôn giáo nơi vị chân phước đã sống. Với quyết định này, ứng viên sẽ nhận được danh hiệu Chân phước hay Á Thánh.
Đối với một vị tử đạo, không cần phép lạ. Do đó, khi Đức Giáo Hoàng chấp thuận positio tuyên bố rằng người đó đã tử đạo vì đức tin, thì danh hiệu Chân phước sẽ được ban cho vị tử đạo tại thời điểm đó.
Như thế từ ngày Thứ Hai, 25 Tháng Mười Một, sau khi Đức Thánh Cha nhìn nhận cuộc tử đạo của Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp, ngài được gọi là Chân Phước Tử Đạo Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp.
Giai đoạn IV – Tuyên thánh
Để tuyên thánh, cần có một phép lạ khác cho cả các vị chân phước tử đạo và các vị chân phước đã sống một cuộc đời đức hạnh. Phép lạ này được cho là nhờ sự chuyển cầu của vị chân phước và đã xảy ra sau khi được phong chân phước.
Như thế, trong trường hợp của Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp, cần có một phép lạ xảy ra nhờ lời cầu bầu của ngài sau ngày 25 Tháng Mười Một, 2024.
Các phương pháp để khẳng định phép lạ cũng giống như các phương pháp được áp dụng để phong chân phước. Việc tuyên thánh cho phép Giáo hội hoàn vũ tôn kính vị thánh một cách công khai. Với việc tuyên thánh, vị chân phước sẽ có được danh hiệu là Sanctus hay là Thánh.
Đức Ông Robert Sarno
Bộ Tuyên thánh
Thành phố Vatican