Cha Gerald E. Murray là một luật sư giáo luật, cha sở của Nhà thờ Thánh Giá ở Thành phố New York. Ngài là tác giả của nhiều cuốn sách Công Giáo nổi tiếng. Cuốn mới nhất có tựa đề “Làm dịu cơn bão: Chèo chống trước các cuộc khủng hoảng Giáo hội và Xã hội Công Giáo phải đối mặt.” Ngài vừa có bài viết nhan đề “In One Word: Disaster”. Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Vấn đề đầu tiên và nghiêm trọng nhất trong Tuyên ngôn Fiducia Supplicans là việc lựa chọn từ “couple” hay “một cặp” để mô tả hai người cùng giới tính thực hiện hành vi kê gian trong một mối quan hệ tự tuyên bố và công khai đang diễn ra, chẳng hạn như một hôn nhân dân sự. Tôi thất vọng nhận thấy rằng từ sodomy hay kê dâm không được tìm thấy trong Fiducia Supplicans. Các từ đồng tính luyến ái cũng không xuất hiện trong Fiducia Supplicans. Thật vậy, không có đề cập rõ ràng nào về điều gì phân biệt các “cặp” đồng giới với các hình thức hợp tác hoặc liên kết khác giữa hai người cùng giới. Fiducia Supplicans cũng không nêu rõ hành vi nào phân biệt các “cặp” này với các cặp mà Fiducia Supplicans mô tả là đang ở trong “những tình huống bất thường”, hay những người đàn ông và phụ nữ được cho là đã ly hôn và tái hôn dân sự. Từ ngoại tình cũng không có trong Fiducia Supplicans. Fiducia Supplicans tuyên bố rằng cả hai loại cặp đều có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân, nhưng Fiducia Supplicans bỏ qua việc đề cập rằng loại cặp thứ nhất làm như vậy một cách không tự nhiên và loại thứ hai là một cách tự nhiên nhưng vô đạo đức, tức là quan hệ ngoại tình với nhau.
Việc sử dụng từ “một cặp” để mô tả hai người cùng giới tính quan hệ tình dục đồng tính không hề có cơ sở kinh thánh, thần học hay kinh điển nào cả. Bộ Giáo lý Đức tin đã tuyên bố trong tài liệu năm 2003 “Những cân nhắc về đề xuất công nhận pháp lý đối với sự kết hợp giữa những người đồng tính” rằng:
Hoàn toàn không có cơ sở nào để coi việc kết hợp đồng giới là tương tự hoặc thậm chí hơi giống với kế hoạch của Thiên Chúa dành cho hôn nhân và gia đình. Hôn nhân là thánh thiện, trong khi những hành vi đồng tính luyến ái lại đi ngược lại luật luân lý tự nhiên. Các hành vi đồng tính luyến ái đóng kín hành vi tình dục với món quà sự sống. Chúng không xuất phát từ sự bổ sung tình cảm và tình dục đích thực. Trong mọi trường hợp chúng không thể được chấp thuận.
Giáo hội chưa bao giờ (cho đến nay) và không bao giờ nên phân loại hai người trong một cuộc kết hợp đồng tính luyến ái bằng cùng một từ mà Giáo hội dùng để chỉ một người nam và một người nữ đã kết hôn, hoặc sắp đính hôn, hoặc đang hẹn hò.
Hành vi đồng tính luyến ái không phải và không thể là hành vi hôn nhân. Tài liệu năm 2003 nêu rõ:
Sự kết hợp đồng tính hoàn toàn thiếu các yếu tố sinh học và nhân học của hôn nhân và gia đình… Các sự kết hợp đồng tính cũng hoàn toàn thiếu chiều kích vợ chồng, chiều kích tượng trưng cho hình thức tính dục nhân bản và trật tự. Các mối quan hệ tình dục mang tính nhân bản khi và trong chừng mực chúng biểu lộ và cổ võ sự hỗ trợ lẫn nhau giữa hai giới trong hôn nhân và mở ra cho việc truyền sinh sự sống mới.
Kê gian không phải là một cách thay thế để tham gia vào các mối quan hệ tình dục của con người, với con người được Giáo hội hiểu là theo bản chất con người được Thiên Chúa tạo dựng. Nói một cách chính xác, đó không phải là hôn nhân mà chỉ là một hành vi tình dục, nhưng đúng hơn là một sự lạm dụng nghiêm trọng các cơ quan sinh dục. Bộ Giáo Lý Đức Tin đã ban hành vào năm 1986 một Thư gửi các Giám mục của Giáo Hội Công Giáo về việc chăm sóc mục vụ cho những người đồng tính, trong đó nêu rõ giáo huấn của Giáo hội:
Chọn một người cùng giới tính cho hoạt động tình dục của mình là hủy bỏ tính biểu tượng và ý nghĩa phong phú, chưa kể đến các mục tiêu, trong kế hoạch tình dục của Đấng Tạo Hóa. Hoạt động đồng tính luyến ái không phải là một sự kết hợp bổ sung, có khả năng truyền tải sự sống; và như vậy, nó cản trở lời mời gọi sống theo hình thức tự hiến mà Tin Mừng nói là bản chất của đời sống Kitô hữu. Điều này không có nghĩa là những người đồng tính luyến ái không thường xuyên quảng đại và cống hiến hết mình; nhưng khi họ tham gia vào hoạt động đồng tính luyến ái, họ xác nhận trong mình một khuynh hướng tình dục rối loạn mà về cơ bản là buông thả bản thân.
Như trong mọi rối loạn luân lý, hoạt động đồng tính luyến ái ngăn cản sự hoàn thiện và hạnh phúc của chính mình bằng cách hành động trái ngược với sự khôn ngoan sáng tạo của Thiên Chúa. Giáo hội, khi bác bỏ những quan điểm sai lầm liên quan đến đồng tính luyến ái, không hạn chế mà còn bảo vệ quyền tự do và phẩm giá cá nhân được hiểu một cách thực tế và xác thực.
Một người nam và một người nữ được kết hợp thành một cặp bằng lời thề hôn nhân và được hoàn thành bằng sự kết hợp thể xác giữa người chồng và người vợ. Hai người đàn ông hoặc hai người phụ nữ không và không thể trở thành một cặp vợ chồng, theo cách sử dụng từ ngữ không thay đổi của Giáo hội (cho đến nay), bằng cách thực hiện một số cam kết chung để kê gian với nhau, và sau đó tuân theo thỏa thuận đó bằng cách tham gia vào hành vi tội lỗi trái tự nhiên.
Việc sử dụng từ “một cặp” trong Tuyên ngôn Fiducia Supplicans trên thực tế là sự đầu hàng trước hệ tư tưởng dị giáo vốn tuyên bố rằng các cặp đồng giới cũng là những cặp giống như các cặp dị tính. Hậu quả tai hại của việc tán thành quan điểm phi Kitô giáo rằng hai người đồng tính sống chung là “một cặp” là một thông báo gây sửng sốt rằng các cặp đồng tính, giống như bất kỳ cặp vợ chồng nào khác, có thể được ban phúc vì họ cũng “cầu xin rằng tất cả những gì là chân thật, tốt đẹp và nhân bản có giá trị trong cuộc sống và các mối quan hệ của họ được phong phú, chữa lành và nâng cao nhờ sự hiện diện của Chúa Thánh Thần.” (FS 31)
Thư Bộ Giáo Lý Đức Tin năm 1986 mang tính tiên tri trong những cảnh báo của nó khi viết rằng:
Tuy nhiên, ngày nay ngày càng có nhiều người, ngay cả trong Giáo hội, đang gây áp lực rất lớn buộc Giáo hội phải chấp nhận tình trạng đồng tính luyến ái như thể nó không bị rối loạn và dung túng cho hoạt động đồng tính luyến ái. Những người trong Giáo hội tranh luận theo kiểu này thường có quan hệ chặt chẽ với những người có quan điểm tương tự bên ngoài Giáo hội. Những nhóm sau này được hướng dẫn bởi một tầm nhìn trái ngược với sự thật về con người, một điều được mạc khải trọn vẹn trong mầu nhiệm Chúa Kitô. Chúng phản ánh, dù không hoàn toàn có ý thức, một hệ tư tưởng duy vật phủ nhận bản chất siêu việt của con người cũng như ơn gọi siêu nhiên của mỗi cá nhân.
Các thừa tác viên của Giáo hội phải bảo đảm rằng những người đồng tính do họ chăm sóc sẽ không bị đánh lừa bởi quan điểm này, một quan điểm hết sức trái ngược với giáo huấn của Giáo hội. Nhưng rủi ro là rất lớn và có nhiều người tìm cách tạo ra sự nhầm lẫn về quan điểm của Giáo hội, rồi lợi dụng sự nhầm lẫn đó để làm lợi cho mình.
Fiducia Supplicans, mặc dù có những tuyên bố mang tính suy đoán rằng đó là sự “phát triển” giáo huấn của Giáo hội về các phước lành, nhưng vẫn đại diện cho một chiến thắng dành cho những ai dung túng cho hoạt động đồng tính luyến ái. Tại sao? Thưa: bởi vì việc cho phép một linh mục ban phước lành cho những cặp đồng tính luyến ái, là những người kết hợp với nhau dưới một hình thức kết hợp nào đó khiến họ trở thành một cặp, tạo ra vẻ ngoài giả tạo rằng Thiên Chúa thực sự ban phước cho tội lỗi, và rằng Thiên Chúa hài lòng khi các linh mục và giám mục cầu xin Ngài chúc lành cho những gì Thiên Chúa đã cấm.
Như Thánh Phaolô đã viết:
Vì thế, Thiên Chúa đã để mặc họ buông theo dục vọng mà làm những điều ô uế, khiến thân thể họ ra hư hèn. Thay vì Thiên Chúa thật, họ đã theo những thần giả; họ đã tôn thờ những loài thọ tạo, thay vì chính Đấng Tạo Hoá. Chúc tụng Người đến muôn thuở muôn đời. A-men. Bởi thế, Thiên Chúa đã để mặc họ buông theo dục tình đồi bại. Đàn bà không quan hệ theo lẽ tự nhiên, mà lại làm điều trái tự nhiên Đàn ông cũng vậy, không quan hệ với đàn bà theo lẽ tự nhiên, mà lại đem lòng thèm muốn lẫn nhau: đàn ông bậy bạ với đàn ông. Như vậy là chuốc vào thân hình phạt xứng với sự lầm lạc của mình.(Rô-ma 1:24-27)
Một mối quan hệ tình dục rối loạn được hình thành bởi những hành vi vô liêm sỉ, buông thả bản thân là điều không thể chúc phúc. Fiducia Supplicans là một tai tiếng và là một thảm họa khi khẳng định có thể làm như thế.