Thánh Phaolô có xem Thế vận hội Olympic cách đây hai thiên niên kỷ không?

Nghe bài này

Vì vụ tai tiếng chế diễu Bữa Tiệc Ly của Ban Tổ chức Thế vận Hội Paris 2024, nên ít có cơ quan truyền thông Công Giáo nào nói tới khía cạnh tâm linh nhân dịp Thế Vận Hội. Riêng có tờ Aleteia đăng lại 3 bài báo, 2 của Philip Kosloski và 1 của Meg Hunter-Kilmer.

Philip Kosloski trước hết nêu câu hỏi trên và trả lời câu hỏi ấy ngày 31/07/21 nhân dịp Thế Vận Hội Tokyo, và cập nhật ngày 24/07/24, nhân Thế Vận Hội Paris:

Các học giả tin rằng Thánh Phaolô có thể đã tham dự Thế vận hội Eo Đất [Isthmian Games], một cuộc thi đấu thể thao được tổ chức tại Côrintô dẫn đến Thế vận hội Olympic.

Thánh Phaolô thường so sánh cuộc sống của Ki-tô hữu với việc luyện tập và thi đấu của các vận động viên điền kinh. Điều này rất rõ ràng trong Thư thứ nhất của ngài gửi cho người Cô-rin-tô.

“Anh em không biết rằng tất cả những người chạy trong sân vận động đều chạy trong cuộc đua, nhưng chỉ có một người giành được giải thưởng sao? Hãy chạy để giành chiến thắng. Mọi vận động viên đều rèn luyện kỷ luật trong mọi cách. Họ làm vậy để giành được vương miện hay hư nát, nhưng chúng ta thì giành được vương miện không bao giờ hư nát”. 1 Cr 9:24-25.

Thánh Phaolô đang nói về điều gì?

Thế vận hội Eo Đất

Thánh Phaolô đang viết thư cho các Ki-tô hữu tại thành phố Cô-rin-tô. Giữa các kỳ Thế vận hội Olympic được tổ chức tại Olympia (do đó có tên như vậy), có những kỳ thế vận hội khác được tổ chức trong những năm “ngoài”, chẳng hạn như các kỳ thế vận hội được tổ chức tại eo đất Cô-rin-tô.

Những kỳ thế vận hội này được gọi là “Thế vận hội Eo Đất” và Thánh Phao-lô có thể đã chứng kiến những kỳ thế vận hội này khi còn sống.

Trong cuốn sách The Life and Epistles of St. Paul [Cuộc đời và Các Thư của Thánh Phao-lô] xuất bản vào thế kỷ 19, tác giả giải thích về khả năng Thánh Phao-lô đã tham dự những kỳ thế vận hội như vậy.

“Eo đất Cô-rin-tô là một trong bốn cung địa nơi các kỳ thế vận hội nổi tiếng nhất được tổ chức định kỳ… một câu hỏi thú vị được đặt ra ở đây là liệu chính Thánh Tông đồ có từng có mặt trong các kỳ thế vận hội Eo Đất hay không. Người ta có thể lập luận theo kiểu tiên nghiệm rằng điều này rất có thể xảy ra vì vào những mùa này, có rất nhiều người từ khắp các vùng Địa Trung Hải đến chứng kiến hoặc tham gia các cuộc thi và… có khả năng là Thánh Tông đồ cũng như ông mong muốn có mặt tại Giêrusalem trong các lễ hội của người Do Thái nên sẽ vui vẻ rao giảng Tin Mừng vào thời điểm có rất nhiều người tụ họp tại eo đất, nơi mà từ đó, Tin Mừng có thể được truyền đi khắp mọi bờ biển cùng với sự phân tán của những người lạ. Nhưng chúng ta cũng cần nhớ rằng trong chuyến viếng thăm đầu tiên của ngài, Thánh Phaolô đã dành hai năm ở Cô-rin-tô và mặc dù có một số khó khăn trong việc xác định thời gian tổ chức các trò chơi, nhưng có vẻ như chắc chắn rằng chúng diễn ra hai năm một lần vào cuối mùa xuân hoặc đầu mùa hè”.

Hơn nữa, Thánh Phaolô rõ ràng đang ám chỉ đến giải thưởng cuối cùng được trao cho người chiến thắng trong các cuộc đua này: vòng nguyệt quế.

Ngài có thể đã xem nhiều cuộc thi khác nhau, chẳng hạn như đua xe ngựa, ném lao, nhảy xa, chạy bộ, đấu vật và đấm bốc.

Thánh Phaolô đã đề cập trong thư gửi tín hữu Côrintô về các cuộc chạy bộ, tương tự như các cuộc đua vẫn được tổ chức tại Thế vận hội ngày nay.

Khi chúng ta xem Thế vận hội trong thời đại của mình, chúng ta có thể xem như Thánh Phaolô đã xem và được truyền cảm hứng để trở thành một vị thánh, đạt đến sự hoàn hảo trong đời sống tâm linh để “giành” được vương miện vĩnh cửu trên Thiên đàng.

Bài thứ hai của Kosloski cũng đã viết nhân dịp Thế Vận Hội Tokyo tựa là:

Thế vận hội có thể truyền cảm hứng cho chúng ta trở thành thánh như thế nào

Thánh Gioan Phaolô II tin rằng Thế vận hội có thể là nguồn cảm hứng cho đời sống tâm linh của chúng ta, khuyến khích chúng ta hướng đến sự hoàn thiện.

Cứ vài năm, thế giới lại bị Thế vận hội cuốn hút, kinh ngạc khi chứng kiến sự hoàn hảo về thể chất mà mỗi vận động viên đã đạt được.

Thánh Gioan Phaolô II cũng là một người hâm mộ lớn của Thế vận hội và ngài thấy những bài học tâm linh tuyệt vời cần học hỏi.

Trong thông điệp thể thao của mình trong Năm Thánh 2000, ngài đã chỉ ra rằng Thế vận hội là sự khích lệ cho tất cả chúng ta trong đời sống tâm linh.

“Tại Thế vận hội Olympic gần đây ở Sydney, chúng ta đã ngưỡng mộ những chiến công của các vận động viên vĩ đại, những người đã hy sinh bản thân trong nhiều năm, ngày này qua ngày khác, để đạt được những kết quả đó. Đây là luận lý học của thể thao, đặc biệt là các môn thể thao Olympic; đây cũng là luận lý học của cuộc sống: không có sự hy sinh, chúng ta sẽ không đạt được những kết quả quan trọng, hoặc thậm chí là sự thỏa mãn thực sự”.

Sau đó, ngài tiếp tục trích dẫn Thánh Phaolô, người cũng đã chỉ ra các vận động viên như một hình mẫu cho đời sống tâm linh.

“Một lần nữa, Tông đồ Phaolô đã nhắc nhở chúng ta về điều này: ‘Mọi vận động viên đều phải tự chủ trong mọi sự. Họ làm vậy để nhận được vòng hoa chóng hư, nhưng chúng ta nhận được vòng hoa bất diệt’ (1 Cr 9:25). Mỗi Ki-tô hữu được kêu gọi trở thành một vận động viên mạnh mẽ của Chúa Kitô, nghĩa là một chứng nhân trung thành và can đảm cho Tin Mừng của Người. Nhưng để thành công trong việc này, họ phải kiên trì cầu nguyện, được rèn luyện về nhân đức và noi theo Thầy chí thánh trong mọi việc”.

Trong khi đó, cũng nhân dịp Thế Vận Hội Tokyo, Meg Hunter-Kilmer viết bài:

Những vị thánh phải biết khi bạn xem Thế vận hội

Những vị thánh này là những người cầu bầu cho mọi điều, từ sức bền dai đến tinh thần thể thao.

Khi thế giới hướng sự chú ý đến Tokyo, nhiều người trong chúng ta có thể thấy mình đang lẩm bẩm cầu nguyện cho các vận động viên mà chúng ta đã theo dõi trong nhiều năm hoặc mới phát hiện ra trong tuần này. Cho dù chúng ta đang cầu xin lòng thương xót du hành cho cho các vận động viên, cầu nguyện cho một vận động viên chạy marathon đang đuối sức ở chặng cuối, hay cầu nguyện trong các nỗ lực thể thao của chính mình, thì (luôn luôn) có một vị thánh cho điều đó.

Kibe là một Ki-tô hữu Nhật Bản đã bị từ chối nhận vào Dòng Tên nhiều lần vì chủng tộc của mình. Cuối cùng, ngài đã đến Rome để trở thành một linh mục Dòng Tên (một hành trình bao gồm 3,700 dặm cuốc bộ) sau đó dành tám năm du hành trở về Nhật Bản. Ngài đã phải đổi hướng do bão, bị cướp biển truy đuổi và từ chối đi trên những con tàu đến Nhật Bản trước khi cuối cùng ngài đóng được con tàu của riêng mình để đi chặng cuối của hành trình. Ngay cả đắm tàu cũng không thể ngăn cản vị linh mục này, người khao khát được ở bên người dân của mình. Cuối cùng, ngài đã đến Nhật Bản, nơi ngài phục vụ các Ki-tô hữu hầm trú của Nhật Bản trong chín năm trước khi bị phản bội và bị tử đạo.

Baanabakintu là một phó tù trưởng người Uganda đã đi bộ gần 100 dặm mỗi cuối tuần (qua rừng rậm và rừng cây và lội qua một con sông hai lần mỗi chiều, thường chiến đấu với động vật hoang dã hoặc kẻ cướp) để đến tham dự và trở về từ Thánh lễ, nơi ngài ghi thuộc lòng bài giảng và trở về để lặp lại cho các Ki-tô hữu ở nhà. Khi tin tức nổ ra rằng Kabaka Mwanga đã bắt đầu giết hại các Ki-tô hữu, Baanabakintu có thể dễ dàng bỏ trốn. Nhưng thay vì nằm im, ngài lập tức lên đường đến nhà của thủ lĩnh, người mà ngài và người bạn thân thiết Thánh Matthias Mulumba Kalemba đã quy phục như các Ki-tô hữu; cả hai đều bị tử đạo.

Evans là một tu sĩ dòng Tên người xứ Wales được thụ phong tại Bỉ và được gửi trở lại xứ Wales để làm linh mục bí mật. Sau khi bị bắt vì tội làm linh mục, ngài đã dành thời gian trong tù để chơi đàn hạc và chơi quần vợt. Khi một cai ngục được cử đến để thông báo rằng án tử hình của ngài đã được ấn định vào ngày hôm sau, làm gián đoạn trận đấu quần vợt của ngài để đưa ngài trở lại nhà tù, Cha Evans đã trả lời, “Có gì vội vàng? Để tôi chơi hết ván đấu của mình trước đã.” Sau ván đấu của mình, Cha Evans đã dành thời gian còn lại để vui vẻ chơi đàn hạc trước khi bị tử đạo.

Dulce là một nữ tu người Ba Tây được đề cử giải Nobel vì công việc của bà với người nghèo. Là một người hâm mộ đội bóng đá Ypiranga (một trong những đội bóng đá hòa nhập đầu tiên ở Ba Tây), cô bé Dulce đã đến sân vận động để cổ vũ họ vào mỗi Chúa Nhật cùng với cha mình—trừ khi cô bé bị cấm chơi bóng đá. Nhiều thập niên sau, bà vẫn say sưa nói về cầu thủ yêu thích của mình, Popó. Nhưng bà không chỉ giới hạn tình yêu bóng đá của mình vào việc xem; Dulce cũng chơi bóng, cả khi còn nhỏ và sau này khi bước vào đời sống tu trì, chơi với trẻ em trên phố để mang lại niềm vui cho cuộc sống khó khăn của chúng. Dulce cũng xây dựng bệnh viện và bếp ăn từ thiện và chơi đàn accordion để động viên tinh thần những người lao động.

Guido là một bác sĩ và chủng sinh người Ba Tây. Ông dành thời gian đến thăm người nghèo và cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế cho họ, tổ chức các nhóm cầu nguyện cho bạn bè và lướt sóng gần nhà ông ở Copacabana. Theo một người bạn, Guido nói rằng “lướt ván, đi thuyền là trải nghiệm hoàn hảo vì nó giống như được Chúa ôm ấp vậy”. Ông gần như hoàn thành xong việc học tại chủng viện khi ông và một vài người bạn đi lướt sóng như một kiểu tiệc độc thân cho một người bạn sẽ kết hôn vào ngày hôm sau. Họ cùng nhau cầu nguyện trước khi ra ngoài, nhưng Guido đã ngã khỏi ván trượt, trúng cổ và bất tỉnh; ông chết đuối trước khi bạn bè kịp kéo xác ông vào bờ.

Teresita là một thiếu nữ Tây Ban Nha xinh đẹp và nổi tiếng, đội trưởng đội bóng rổ trường trung học của cô và là một ngôi sao quần vợt. Mặc dù có tài năng tuyệt vời trên sân tennis, cô chưa bao giờ giành được chức vô địch. Vào năm cuối cấp, cô được ưu ái giành chiến thắng; lo lắng rằng chiến thắng sẽ thổi phồng lòng kiêu hãnh của mình, Teresita đã cầu xin Đức Mẹ không phải cho một chiến thắng mà là bất cứ điều gì làm Chúa Giêsu hài lòng nhất. Khi cô thua, Teresita có thể chấp nhận kết quả với niềm vui đến nỗi mẹ cô, khi nhìn thấy khuôn mặt của Teresita, cho rằng con gái mình hẳn đã chiến thắng.

Morse sinh ra là một người Tin lành người Anh nhưng đã trở thành một linh mục Dòng Tên và trở về Anh để phục vụ bí mật. Phần lớn công việc của ngài bao gồm phục vụ các nạn nhân của bệnh dịch hạch, cả trong đợt bùng phát năm 1624 và một lần nữa (sau khi ông bị trục xuất khỏi Anh nhưng đã bí mật trở về) vào năm 1635. Trong những năm 1635-1636, Cha Morse đã mắc bệnh dịch hạch ba lần nhưng đều bình phục. Khi, sau đó, ngài bị bắt, công việc của ngài với các nạn nhân bệnh dịch hạch đã được xem xét và ngài đã được thả tự do. Lần tiếp theo bị bắt, không có sự khoan hồng nào như vậy và Morse đã bị tử vì đạo.

Vũ Văn An

LỜI CHÚA MỖI NGÀY

VATICAN NEWS

VIETCATHOLIC NEWS