Ứng cử viên phó tổng thống Tim Walz ủng hộ quyền giết trẻ sơ sinh

Nghe bài này

Charles C. Camosy, trên First Things, ngày 9/8/2024, cho hay: Ứng cử viên tổng thống đảng Dân chủ Kamala Harris đã chọn Thống đốc Tim Walz của Minnesota làm ứng cử viên phó tổng thống. Walz gần đây đã hợp pháp hóa việc giết trẻ sơ sinh [infanticide] tại tiểu bang Minnesota. Là một người không tự nhận mình là người bảo thủ, tôi sẽ rất vui nếu tuyên bố này có thể bị bác bỏ như một cơn sốt trong cơn sốt của phe cánh hữu. Thật không may, điều đó hoàn toàn có thật. Và khi nói đến việc giết trẻ sơ sinh, tôi thực sự muốn nói đến việc nhắm đến cái chết của trẻ sơ sinh.

Một chút về lịch sử. Trước khi đạo đức Ki-tô giáo trở nên thống trị ở phương Tây, việc giết trẻ sơ sinh (cùng với phá thai) được coi là một cách hợp pháp để kiểm soát sinh sản. Ví dụ, ở Hy Lạp và La Mã cổ thời, việc bỏ rơi trẻ sơ sinh (thường là vì chúng là con gái hoặc khuyết tật) thậm chí còn được hệ thống hóa – với một số địa điểm được chỉ định là nơi bỏ rơi trẻ sơ sinh. Rất thường xuyên những đứa trẻ như vậy bị giết do bị phơi nhiễm hoặc bị động vật hoang dã giết chết, nhưng đôi khi chúng được những người nhặt chúng, nuôi dưỡng chúng làm nô lệ hoặc gái mại dâm.

Thực hành này dường như rất phổ biến đến nỗi một lý do khiến các Ki-tô hữu cổ thời được cảnh báo không nên đến gái mại dâm là vì có khả năng người phụ nữ đó có thể là thành viên trong gia đình. Các Ki-tô hữu cổ thời này không chỉ nhận nuôi nhiều trẻ sơ sinh bị phơi bày này và nuôi dưỡng chúng như con mình, mà Sách Giáo lý đầu tiên mà chúng ta có, Didache, đã đáp ứng các dấu chỉ thời đại đó bằng cách nhấn mạnh rằng các Ki-tô hữu không được “giết trẻ em bằng cách phá thai hoặc giết chúng khi chúng mới sinh”.

Nhiều nhà triết học đạo đức trong thời đại của chúng ta đã công khai bác bỏ quan điểm Ki-tô giáo về phẩm giá và sự bình đẳng của mọi sự sống nhân bản – và thay vào đó chỉ tập trung vào những sinh vật có một số đặc điểm nhất định (lý trí, tự nhận thức, v.v.)—không có gì đáng ngạc nhiên khi họ chấp nhận quan điểm tiền Kitô giáo về việc giết trẻ sơ sinh như một cách hợp pháp về mặt đạo đức để kiểm soát việc sinh sản. Những nhà tư tưởng như Peter Singer, Michael Tooley, Jeff McMahon, Eduard Verhaegen, Pieter Sauer, Alberto Giubilini, Francesca Minerva (và một số người khác) đã khẳng định quan điểm này trước công chúng. Journal of Medical Ethics [Tạp chí Y đức] uy tín thậm chí còn dành hẳn một số báo để nói về tội giết trẻ sơ sinh vào năm 2013.

Trong số báo đó, Giáo sư Robert George và tôi đã khám phá sự bất đồng quan điểm của chúng tôi về việc liệu toàn bộ khái niệm giết trẻ sơ sinh có phải là “điên rồ” hay không. Một mặt, tôi rất đồng ý – xét đến tầm nhìn về điều tốt đẹp hiện diện trong Didache – rằng giết trẻ sơ sinh là điên rồ về mặt đạo đức. Nhưng theo tầm nhìn về điều tốt đẹp mà nền văn hóa phương Tây đang phản bội của chúng ta áp dụng, xét về mặt luận lý, quyền giết trẻ sơ sinh theo sau quyền phá thai. Theo quan điểm này, chỉ là Homo sapiens – dù ở trong hay ngoài tử cung – không mang lại cho một người địa vị đạo đức hay pháp lý. Thật vậy, một số con người trước khi sinh ra (ví dụ như ở tuần thứ 28 của thai kỳ) phát triển và tinh vi hơn những con người sơ sinh sinh non (ví dụ như ở tuần thứ 23).

Điều này đưa chúng ta đến với Tim Walz, hiện là ứng cử viên phó tổng thống của đảng Dân chủ, và việc ông hợp pháp hóa tội giết trẻ sơ sinh ở Minnesota. Vào năm 2023, Walz đã ủng hộ một dự luật y tế tổng hợp đã thay đổi hoàn toàn luật phá thai của tiểu bang ông. Dự luật y tế này, trong một cuộc gợi lại thông lệ bỏ rơi trẻ sơ sinh thời xưa, đã cố ý và rõ ràng hợp pháp hóa việc từ chối chăm sóc y tế cứu sống đối với trẻ sơ sinh còn sống sau khi phá thai hỏng. Luật của tiểu bang từng bảo vệ rõ ràng những đứa trẻ này. Nhưng Walz và những người ủng hộ ông đã thay đổi nó, nhấn mạnh rằng các nhắc nhở tới phá thai phải được xóa bỏ và “chăm sóc y tế” phải được đổi thành chỉ còn “chăm sóc” mà thôi. Ngoài ra, trong khi luật ban đầu yêu cầu nhân viên y tế “bảo vệ tính mạng và sức khỏe của trẻ sơ sinh còn sống”, thì thay đổi do Walz ủng hộ đã phá vỡ toàn bộ ranh giới đó – giờ đây, luật chỉ yêu cầu nhân viên y tế “chăm sóc trẻ sơ sinh sinh ra sống động”.

Không còn yêu cầu nào nữa để bảo vệ tính mạng và sức khỏe của trẻ sơ sinh còn sống sau khi phá thai hỏng. Hiểu chưa.

Tiểu bang New York đã làm điều tương tự khi thông qua Đạo luật Sức khỏe Sinh sản. Ban đầu, tiểu bang đó yêu cầu hai bác sĩ phải có mặt tại một ca phá thai sau khi thai nhi có khả năng sống để “đảm bảo sức khỏe và sự an toàn của người mẹ và đứa trẻ còn sống” nếu có ca sinh ngoài ý muốn. Nhưng luật năm 2019 đã rõ ràng loại bỏ yêu cầu bảo vệ này đối với trẻ sơ sinh. Độc giả cũng có thể quen thuộc với một dự luật tương tự năm 2019 tại Virginia mà Thống đốc Ralph Northam khi đó cho biết sẽ cho phép những điều sau: “Trẻ sơ sinh sẽ được sinh ra, trẻ sơ sinh sẽ được giữ thoải mái, trẻ sơ sinh sẽ được hồi sức nếu đó là điều mà người mẹ và gia đình mong muốn. Và sau đó sẽ có một cuộc thảo luận giữa các bác sĩ và người mẹ”.

Kiểu cố ý không điều trị cho trẻ sơ sinh để chúng chết này hiện đã trở thành thông lệ trong nền văn hóa của chúng ta. Thống đốc Northam đã thừa nhận điều đó. Tiểu bang Minnesota cũng thừa nhận điều đó thông qua hồ sơ của tiểu bang. Tôi cũng đã viết một bài báo chi tiết cho Public Discourse để chứng minh điều này xảy ra thường xuyên như thế nào, đặc biệt (nhưng không chỉ) là khi em bé bị khuyết tật không mong muốn. Ví dụ, tôi chỉ ra cách một gia đình được chẩn đoán mắc bệnh giới hạn cuộc sống (tật nứt đốt sống) cho đứa con của họ trước khi sinh—và sau đó, sau khi chống lại những lời đề nghị liên tục và hung hăng rằng họ nên phá thai, họ được bảo rằng họ có thể đợi cho đến khi đứa con chào đời và ngăn cản việc điều trị sau đó.

Một lần nữa, việc ngăn cản điều trị để duy trì sự sống vì em bé “quá tàn tật và chúng tôi muốn chúng chết ngay bây giờ” khá phổ biến trong các đơn vị chăm sóc tích cực sơ sinh (NICU) ngày nay. Nhà đạo đức sinh học và bác sĩ sơ sinh của Yale, Mark Mercurio viết trên Tạp chí Perinatology rằng hầu hết các bác sĩ sơ sinh và các bác sĩ khác đều có một số trường hợp họ sẽ ngăn cản chăm sóc y tế duy trì sự sống vì bệnh nhân quá tàn tật và những trường hợp khác thì họ sẽ không làm vậy. Nghiên cứu của họ phát hiện ra rằng, đối với trẻ sơ sinh nhỏ tuổi, việc điều trị duy trì sự sống sẽ thường xuyên bị ngăn cản, nhưng đối với trẻ lớn hơn thì không, ngay cả khi cả hai trẻ đều có cùng vấn đề sức khỏe và khả năng bị tàn tật lâu dài.

Mercurio cho rằng lý do cho điều này là vì trẻ nhỏ hơn thiếu “sự gắn bó liên ngã mà trẻ sơ sinh và trẻ em lớn tuổi hơn vốn có” và các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe có thể không coi trẻ “có cùng một nhân cách như trẻ sơ sinh lớn tuổi được về nhà”. Thật vậy, ông nói rằng một số bác sĩ nghĩ rằng họ “cứu” đứa trẻ lớn hơn đã bị khuyết tật, nhưng “tạo ra” một người khuyết tật nếu họ điều trị thành công cho trẻ sơ sinh.

Rõ ràng, quan điểm như vậy không có nhiều ý nghĩa nếu trẻ sơ sinh có phẩm giá và giá trị ngang bằng với những người em lớn tuổi hơn chúng ta, nhưng thực tế là việc nhắm vào cái chết của trẻ sơ sinh theo cách này hiện đã trở thành thông lệ ở các NICU phương Tây là một dấu hiệu khác nữa cho thấy chúng ta đang tái ngoại giáo hóa. Chúng ta không còn nghĩ rằng chỉ cần là con người là đủ. Cần phải có điều gì đó khác nữa—và con người mới sinh không có điều đó. Peter Singer và nhiều nhà triết học thế tục đương thời nghĩ vậy. Y học đương thời nghĩ vậy. Và ứng cử viên của đảng Dân chủ cho chức phó tổng thống Hoa Kỳ cũng nghĩ vậy.

Vũ Văn An

LỜI CHÚA MỖI NGÀY

VATICAN NEWS

VIETCATHOLIC NEWS