Gương đốt sáng và thăng hoa văn hóa Việt Nam của ba thánh: Cha Năm, Ông Trùm Đích và Ông Lý Mỹ

Nghe bài này

Từ khi Tin Mừng được rao truyền ở Việt Nam vào thế kỷ XVI (1533) đến cuối thế kỷ XIX (1895), 130.000 người Việt Nam đã bị vua quan Việt Nam sát hại, vì họ là người Công Giáo. Có thể bảo rằng lịch sử 362 năm (1533-1895) của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam là lịch sử một cuộc cấm đạo liên tục, với ba giai đoạn chính, mà độ cao thấp và nặng nhẹ khác nhau:

1. Trịnh Nguyễn và Tây Sơn (1533-1800), với khoảng 30.000 giáo hữu bị giết hại, trong đó 7 vị được phong hiển thánh.

2. Ba vua nhà Nguyễn: Minh Mạng (1820-1840), Thiệu Trị (1840-1847) và Tự Đức (1847-1883), với khoảng 40.000 tín hữu bị giết hại, trong đó 111 vị được phong hiển thánh.

3. Văn Thân (1874-1895) có tới trên dưới 60.000 người dân Công Giáo bị giết hại.

Dù đã được tuyên thánh hay chưa, 130.000 vị Tử Đạo, trước hết là 130.000 anh hùng của đức tin, thứ đến là 130.000 anh hùng của nền văn hóa Việt Nam. Tại sao vậy? – Bởi lẽ, khi chết vì đức tin, các ngài đã một trật đốt sáng và thăng hoa nền đạo lý cổ truyền (thờ Trời, thờ kính Tổ Tiên, tin linh hồn bất tử) của quê hương; nền luân lý ‘ngũ luân, ngũ thường’ của dân tộc; và những đức tính cao đẹp của người dân Việt Nam, như tinh thần cầu tiến ‘nhật tân hựu nhật tân’, như ý chí đi tìm ‘chân, thiện, mỹ’, và như tính tình ‘bất khuất’, ‘liên đới’, ‘tự do và kiên trì’…

Giữa 130.000 vị anh hùng đức tin và văn hóa ấy, trong chương này, chúng tôi muốn nêu bật ba vị thánh tiêu biểu, linh mục Giacôbê Nguyễn Văn Năm, ông trùm Antôn Nguyễn Đích và ông Lý Trưởng Micae Nguyễn Huy Mỹ, với những điểm trình bày sau đây:

1. Cuộc xưng đạo và tử đạo của cha Năm, ông trùm Đích và ông lý Mỹ.

2. Ba Thánh Tử Đạo đích thực là tử đạo Kytô hữu.

3. Ba Thánh Tử Đạo đã sống và đốt sáng văn hóa Việt Nam.

4. Ba Thánh Tử Đạo đã thăng hoa văn hóa Việt Nam

I. CUỘC XƯNG ĐẠO VÀ TỬ ĐẠO CỦA CHA NĂM, ÔNG TRÙM ĐÍCH VÀ ÔNG LÝ MỸ

Cả ba vị đều đã bị bắt dưới triều vua Minh Mệnh vào một ngày, ngày 03.07.1838 tại nhà ông Trùm Đích, làng Kẻ Vĩnh, Nam Định và bị xử trảm một nơi, pháp trường Bảy Mẫu, ngày 12.08.1838.

11. Cuộc xưng đạo và tử đạo của linh mục Giacôbê Đỗ Mai Năm, bị bắt ngày 3.7.1838, xử trảm ngày 12.8.1838. Cha Giacôbê Năm, chính tên là Mai Ngũ. Ngài sinh năm 1781 tại làng Ðông Biên, huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh Hóa, dưới đời Tây Sơn. Ngài được gửi vào nhà Ðức Chúa Trời khi còn bé, rồi được gửi vào trường La Tinh ở Kẻ Vĩnh dưới đời Ðức Cha Giacôbê Leager. Khi thầy Năm đi giúp xứ, ngài được Đức Cha sai đi coi nhà thương Kẻ Vĩnh. Ban ngày thầy săn sóc bệnh nhân. Ban tối đi dạy trẻ em làng Kẻ Vĩnh. Thầy chịu các chức nhỏ, rồi năm 1813 được Đức Cha truyền chức linh mục. Năm đó cha Năm được 32 tuổi. Sau khi chịu chức, cha Năm được bài sai đi coi xứ. Các xứ ngài coi, dân chúng đều quý mến ngài. Ðến độ nửa đời người, Đức Cha gọi ngài về coi nhà chung. Ðược hai ba năm thì có lệnh vua cấm đạo, bắt các đạo trưởng và triệt hạ các nhà thờ. Bấy giờ nhà chung Kẻ Vĩnh phải giải tán. Cha Năm trốn tránh tại nhà ông trùm Tôn thuộc họ Kẻ Nguồi độ ba bốn năm. Khi đã bớt cơn cấm đạo, nhà chung lại phục hồi, cha Năm lại trở về để cai quản nhà chung.

Ðộ ít lâu sau, các quan lại cấm đạo gắt gao, lần này nhà chung lại đóng cửa, và cha Năm phải trốn tránh đi nơi khác. Cha đến ở nhà ông trùm Ðích ở làng Kẻ Vĩnh.

Tính cha Năm hiền hòa vui vẻ, cha thường kể truyện giặc giã đời Tây Sơn cho người ta nghe, nhiều người quý mến ngài. Ngoài tính vui vẻ, cha Năm còn có tính khiêm nhường, đạo đức, cứ giờ cứ mực mà ra đọc kinh… Ðối với vấn đề tử đạo, cha Năm rất ao ước. Lần kia, cha được tin ông kia bỏ đạo thì buồn bã phàn nàn rằng: “Ôi ông ấy dại dột dường nào! Ông ấy được dịp tốt đến mà không chịu nhờ. Ðức Chúa Trời đã đem ông ấy vào đàng ngay nẻo chính để lên Thiên Ðàng, mà ông ấy không chịu đi. Giả như Chúa thương ban phúc ấy cho tôi, thì tôi chẳng dám từ chối. Giả như Chúa có liệu dịp tốt lành cho tôi như thế, thì tôi chẳng dám bỏ qua”.

Ðang khi cha Năm ẩn mình trong nhà ông trùm Ðích, thằng Tỉ quê ở Ðông Mạc và thằng Xuân quê ở Tiểu Tức Mạc về huyện Mĩ Lộc, được các quan tỉnh Nam Ðịnh sai đi do thám. Chúng đến làng Kẻ Vĩnh vào nhà ông trùm Ðích giả làm người xin đi làm thuê. Ông trùm Ðích vô tình không biết là quân do thám, nên thuê chúng làm mướn cho ông. Ngay cả dân làng cũng không ai ngờ chúng là quân do thám của tỉnh. Hai tên này chẳng làm thuê nhà ông trùm được bao lâu, chúng liền bỏ đi, khi trở về chúng dẫn quân lính đến để bắt ông trùm và cha Năm. Lúc đó dân làng mới biết chúng là quân do thám. Hai tên Tỉ và Xuân sau khi đã lấy đủ bằng chứng về cha Năm, và các đồ thờ phượng chứa trong nhà ông trùm, chúng về tỉnh báo cáo với ông Trịnh Quang Khanh đang làm tuần phủ Nam Ðịnh. Vừa được tin, ông chia làm hai đạo quân: Một đạo quân đi đường bộ, một đạo quân đi đường thủy để vây làng Kẻ Vĩnh. Năm Minh Mệnh thứ 19, sáng ngày 3.7, khi mặt trời vừa mới mọc, quan quân vây 4 mặt làng Kẻ Vĩnh. Ông tuần phủ đi thuyền đến bến Kẻ Vĩnh, lên ngôi đình làng, đòi lý trưởng là ông Lý Mỹ (con rể ông trùm Ðích) và đàn anh trong làng ra truyền rao mõ gọi mọi người, từ 18 tuổi trở lên, phải đến tại đình điểm danh. Ông còn bắt lý trưởng làm tờ cam kết hễ bắt được đạo trưởng và đồ đạo quốc cấm trong làng, thì phải chịu tội.

Ðang khi tuần phủ ngồi tại đình truyền lệnh, thì hai thằng làm thuê nhà ông trùm Ðích dẫn cai đội và mấy người lính đến vây nhà ông trùm Ðích. Thoạt tiên được tin tuần phủ đến vây làng, và truyền mọi người đến điểm danh, cha Năm thắt lưng xắn quần xắn áo toan đi làm cơm cho quan như những người dân khác. Nhưng cha chưa kịp đi lính đã ập tới nhà ông trùm Ðích. Thấy cha trắng trẻo, sang tướng và râu ria đẹp đẽ, lính liền chặn hỏi: “Ông có phải là cụ chăng?” Cha Năm trả lời rằng: “Tôi là người nhà này”. Bấy giờ hai thằng do thám liền la lên: “Ông ấy là cụ Năm đó. Chính cụ đang ở nhà này”. Cha Năm bảo rằng: “Phải, tôi là cụ đây”.

Lập tức quân lính bắt trói ngài và ông trùm Ðích đem nộp cho quan đang ngồi tại đình. Khi đến trước mặt quan, cha cũng xưng mình là đạo trưởng. Quan bảo rằng triều đình đã nghiêm cấm đạo Gia Tô, sao chẳng về nhà làm ăn, còn giảng đạo làm chi? Sau đó quan hỏi cha có chịu bỏ đạo không, cha Năm thưa: “Bẩm quan lớn, chúng tôi không bỏ đạo”.

Quan hỏi sơ qua rồi truyền đóng gông cha, cùng ông trùm Ðích và ông Lý Mỹ là con rể ông trùm Ðích đem xuống thuyền giải ra Nam Ðịnh.

Khi cha Năm đến Nam Ðịnh thì phải giam vào ngục thất ngay. Hôm sau các quan điệu ngài ra tra khảo bắt bỏ đạo. Cha Năm khẳng khái trả lời quan: “Bẩm lạy quan lớn, tôi là đạo trưởng mà tôi dám bỏ đạo hay đạp ảnh tượng Chúa tôi làm sao được? Tôi vốn khuyên dạy người ta phải giữ đạo vững vàng và thà chết chẳng thà bỏ đạo, thì tôi phải giữ lời tôi khuyên dạy kẻ khác. Nếu chính kẻ làm đạo trưởng chẳng chịu chết vì đạo, thì còn ai chịu chết vì đạo nữa?”

– “Nếu ông cứ nói giọng này thì ông phải chết chẳng có lẽ nào sống được. Ta thấy ông là người lương thiện hẳn hoi nên ta muốn cho ông được sống. Ta khuyên ông nên vâng lời Ðức Hoàng Ðế mà bỏ đạo”.

– “Bẩm lạy quan lớn, tôi đã bằng này tuổi đầu thì tôi đâu còn sợ chết, vì dù quan lớn có tha chẳng giết tôi, chẳng bao lâu tôi cũng chết vì bệnh. Nhưng nếu quan lớn giết tôi vì đạo tôi lại được nhiều ơn ích hơn là tôi chết vì bệnh. Vì nếu tôi chết vì đạo, tôi sẽ được chết vì Chúa tôi, đấng đã chịu chết cho tôi và tôi chóng được phần phúc Người đã hứa ban cho những kẻ giữ lòng trung cùng Người cho đến sau hết”.

Các quan thấy cha Năm ăn nói cả quyết cứng cát và chỉ ao ước được chết vì đạo, thì biết rằng chẳng có thể nào dụ dỗ ngài bỏ đạo được, và dù có tra tấn ngài mặc lòng thì cũng vô ích mà thôi, cho nên chẳng những các quan chẳng tra khảo mà cũng chẳng đánh đập ngài. Hơn nữa các quan thấy ngài đã có tuổi, ăn nói lễ phép nên cũng thương không bắt ngài mang gông cùm ban ngày mà chỉ bắt mang ban đêm thôi. Các quan cũng làm ngơ để cho cha đi lại trong tù dễ dàng. Ở đây lại được dịp cho cha truyền giáo. Ðối với những người ngoại giáo thì cha yên ủi giảng dạy cho họ. Ðối với những người có đạo thì cha nâng đỡ và khuyên bảo họ mạnh dạn xưng đức tin. Trường hợp ông trùm Ðích, tuổi đã cao, và rất sợ hãi không biết có chịu nổi các thử thách và đòn đánh đến giây phút cuối cùng không, cha Năm luôn khuyên bảo ông can đảm chịu đựng vì Chúa: “Khi được ơn Chúa giúp sức thì chẳng có hình khổ dữ tợn và đau đớn nào mà người ta chẳng chịu nổi. Như trường hợp Thánh Laurenso bị nướng trên giường sắt, ba trẻ đi trong lò lửa”.

Nhờ cha mà ông trùm Ðích can đảm chịu chết vì Chúa cùng một lượt với cha và con rể của ông.

Sau nhiều ngày trong tù, các quan thấy cha Năm không thay dạ đổi lòng, và biết không thể nào khuyên cha bỏ đạo, thì làm án xin xử tử cha. Án của cha như sau: “Tên Mai Ngũ là đạo trưởng đã theo tây dương đạo trưởng Giacôbê (Đức Cha Leager) từ thuở nhỏ đến lớn, đã tin đạo Gia Tô cùng in đạo ấy vào lòng đến nỗi không còn hiểu được sự phải trái. Lại bởi tên ấy cứ một mực chấp mê cứng cổ bất khẳng quá khóa, bất tuân quốc pháp, thì chúng tôi đã luận cho nó phải trảm quyết cùng bêu đầu ba ngày để cho ai nấy phải sợ và đừng bắt chước nó nữa”.

Cha Năm biết các quan làm sớ về triều rồi thì chắc chẳng bao lâu nữa mình sẽ phải xử, cho nên dọn mình chết rất kỹ càng.

Các quan làm án được 15 ngày thì vua Minh Mạng chuẩn y. Chiếu chỉ vua đến Nam Ðịnh ngày 11.8. Ngày hôm sau, cha Năm, ông trùm Ðích và ông Lý Mỹ bị xử trảm. Các ngài bị đưa đến một nơi gọi là Bảy Mẫu, pháp trường nơi xử tù nhân xưa nay. Trên đường đi các ngài ca hát vui vẻ lắm. Dân chúng kéo đi xem rất đông. Hai ông quan giám sát cưỡi hai voi và hơn hai trăm quân lính kéo ra lối cửa Bắc đi trước, cha Năm, ông trùm Ðích, ông Lý Mỹ mang gông mang xiềng đi sau. Lại có ba tên lính mang thẻ đã đề tên ba đấng đi trước các ngài. Rồi đến cha Năm đi trước, ông trùm Ðích và ông Lý Mỹ theo sau. Thỉnh thoảng cha Năm bảo người ta: “Này đạo trưởng đây, đến mà xem”.

Gặp những người quen, ngài chào từ giã vui vẻ: “Anh em nghỉ lại, tôi về quê trước, nhưng sau này chúng ta sẽ gặp nhau”.

Khi đến pháp trường, cha Năm quỳ xuống cái chiếu mà ông Lý Thi con ông trùm Ðích đã trải sẵn. Ba đấng cầu nguyện một lúc. Sau đó quan giám sát dịch loa, truyền mọi người yên lặng. Quan truyền lịch: “Các người hãy đến để xử những tên theo ông Giêsu. Nếu ai còn dám theo tôn giáo này, thì hãy biết rằng lệnh vua sẽ xử trảm như những tên can phạm này”.

Sau đó một tên lính cầm thẻ đề tên cha Năm mà rao cho mọi người nghe: “Tên Mai Ngũ này là đạo trưởng, quê Ðông Biên, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, đã theo đạo Gia Tô từ thuở còn bé. Lại bất khẳng bỏ đạo thì đức Hoàng Ðế truyền cho nó phải trảm quyết và bêu đầu ba ngày cho người ta xem thấy mà sợ cùng đừng bắt chước nó”.

Rao lệnh xong, quan truyền lên hiệu xử tử. Vừa đánh chiêng xong thì tên lý hình chém một nhát, đầu cha Năm liền đứt và nó cầm đầu ngài tung lên cho các quan xem. Xử ba đấng xong, quan quân kéo về tỉnh. Ông Lý Thi được phép quan đưa xác cha Năm, ông trùm Ðích và ông Lý Mỹ về Kẻ Vĩnh. Những người làng Kẻ Vĩnh ra tỉnh khiêng xác ba đấng ấy về lối cầu Gia Vụ bản, đến Kẻ Thừa thì trời tối. Khi về gần làng Kẻ Vĩnh, dân làng đốt đóm đuốc, đánh trống rầm rã cả lên để ra đón vui vẻ mừng rỡ hết sức. Xác cha Năm được táng tại đầu nhà thờ, còn đầu ngài phải bêu ngoài tỉnh ba ngày, rồi sau cũng đưa về Kẻ Vĩnh, để vào cái vại an táng ở đầu quan tài ngài.

Sau thời bách đạo, nhà chung dựng nhà mồ ở đấy cùng treo câu đối như sau:

Hoành hành nghĩa khí quần gian cụ,

Lẫm lẫm trung thành vạn cổ sư.

Cha Năm chịu tử vì đạo ngày 12.8.1838. Lúc đó ngài được 57 tuổi và làm linh mục được 25 năm [1].

AntonNguyenDich2. Cuộc xưng đạo và tử đạo của ông trùm Antôn Nguyễn Đích, bị bắt ngày 3.7.1838, xử trảm ngày 12.8.1838. Ông trùm Ðích, chính tên là Nguyễn Khiêm, sinh năm 1769 tại làng Chi Long xứ Nam Xang, tỉnh Hà Nội. Cha mẹ là người ngoan đạo, thấy họ Chi Long xa nhà thờ thì bỏ họ ấy mà đem con cái cửa nhà đến ở làng Kẻ Vĩnh, nơi có nhà chung, có các linh mục ở gần để tiện bề đi nhà thờ. Ông bà đến làng Kẻ Vĩnh và xin nhập làng Kẻ Vĩnh. Ông Ðích từ đó sinh sống tại làng này, ông lập gia đình với người làng Kẻ Vĩnh và sinh hạ được mười người con. Ông Ðích là người hiền lành thật thà từ nhỏ, chẳng hề cãi mắng buồn giận ai bao giờ, ông không chửi mắng con cái hay nói năng đến vợ bao giờ. Ông cũng chẳng chơi bời, cờ bạc rượu chè mà chỉ chuyên chú làm ăn và giữ đạo. Trong gia đình, sáng tối cả gia đình đều đọc kinh chung với nhau không bao giờ bỏ. Có người đã đến trọ nhà ông, sau này kể lại là chẳng bao giờ trốn được đọc kinh với ông ấy. Về vấn đề đi dự lễ, ông bắt chẳng những con cháu và người nhà phải đi lễ Chúa Nhật mà cả lễ ngày thường, chỉ để lại một hai người ở nhà coi nhà mà thôi. Chính ông làm gương cho vợ con, ông đi lễ hằng ngày và cầu nguyện sốt sắng. Ông ăn chay suốt mùa chay. Hằng ngày ông lần hạt rất nhiều lần.

Ông dạy bảo và giáo dục con cái cẩn thận chẳng nuông chiều con cái. Dù con cái đã lớn khôn hay đã có vợ con, ông vẫn tiếp tục coi sóc răn bảo. Có đứa con nào cứng cổ cứng đầu thì ông đánh đòn răn bảo, chẳng nuông chiều một đứa nào. Các con cái ông nhờ được ông giáo dục mà sau này nên người không một ai hư hỏng. Các con đều có lòng đạo đức như ông. Một gia đình mà có bốn người được phúc tử vì đạo. Con trai ông là ông Lý Thi sau này cũng tử vì đạo dưới thời Tự Ðức năm thứ 11, tại Nam Ðịnh. Một người con khác tên là ông Phó Nhâm chẳng chịu bỏ đạo bị đày lên Cao Bằng và chết rũ tù ở trên đó. Con rể ông là ông Lý Mỹ cũng chịu tử vì đạo với ông. Trước mặt kẻ ngoại thực là một thảm cảnh cho gia đình ông. Nhưng trước mặt kẻ có đạo, thực là một phúc Chúa ban cho ông và gia đình.

Khi con cái đã khôn lớn, ông lo liệu gia đình. Ông không đặt vấn đề giàu sang phú quý mà là lòng đạo. Người nào muốn cưới hỏi con cái ông phải đạo đức. Dù giàu có mà khô khan nguội lạnh ông cũng không gả con cho. Trái lại dù nghèo mà đạo đức thì ông cũng bằng lòng ngay. Chẳng những ông lo dạy con cái đạo nghĩa, mà còn lo cho con cái học hành. Trong nhà ông, ông nuôi thầy đồ để dạy chữ nghĩa cho con cái. Nhà ông cũng không phải nghèo hèn trong làng. Ông rất căn cơ mực thước chăm chỉ làm ăn, nên nhà không bao giờ thiếu thốn. Trong gia đình có con ăn đầy tớ, và ông đối xử rất công bằng. Ông chẳng mang tiếng xấu gì trong làng và cũng chẳng ai trách móc ông được điều gì. Dù ông mới gia nhập làng Kẻ Vĩnh, nhưng uy tín của ông rất lớn. Ông được xếp vào hàng huynh thủ trong làng. Con rể ông làm Lý Trưởng, sau này con trai ông là ông Lý Thi cũng làm Lý Trưởng.

Ông trùm Ðích có lòng kính mến các đấng các bậc tu trì. Ông hay gửi quà biếu xén nhà chung và làm phúc quần áo cho các chú các thầy. Ông chẳng tiếc công tiếc của với các vị tu trì. Có một năm trong nhà chung bị dịch tả, người chết rất nhiều, số còn lại ốm đau. Bấy giờ ngoài làng có một số người tình nguyện rước các thầy về nhà mình để phục thuốc và đôi khi chờ đến khi khỏe hẳn mới cho trở về nhà chung, ông trùm Ðích rước tám thầy về nhà mình để phục thuốc. Về sau, Đức Cha muốn bù tiền phí tổn cơm nước thuốc men cho ông, nhưng ông không chịu nhận. Lúc bị cấm đạo các thầy phải tản mát các nơi, thì ông chứa chấp các thầy tràng nhất (các chú đang học lớp 12) tại nhà ông chừng hai năm. Quả thật can đảm! Vì có sắc chỉ vua ban ra, ai chứa chấp các đấng bậc mà ông bị bắt. Trước kia ông đã chứa Đức Cha Dụ, rồi 3, 4 năm sau lại chứa cha Năm. Thấy lòng tốt của ông, nên các đấng bậc rất tin tưởng thường đi lại nhà ông. Riêng cha Năm đối xử với ông như anh em ruột vậy. Có lẽ Thiên Chúa đã tiền định để cho đôi bạn quý này được cùng chịu khó vì Chúa với nhau. Ông có lòng thương kẻ khốn khó, nhất là những người bị bệnh phong cùi. Ông thương họ cách đặc biệt. Ông thường đến an ủi giúp đỡ họ và khuyên bảo họ vâng theo thánh ý Chúa. Người ở trại phong thường cậy ông mua và lo liệu mọi sự cho họ. Ông trùm Ðích chẳng bao giờ làm trùm họ, nhưng vì lòng đạo, tư cách của ông cũng như vì tuổi tác mà giáo dân đã kính trọng ông và gọi ông là ông trùm.

Ông Đích bị bắt cùng một ngày và một trường hợp nhhư cha Năm. Vì lúc đó gia đình ông đang chứa giấu cha Năm

Thời gian bị giam ở tỉnh, ông Đích bị gọi ra hầu tòa 4,5 lần và bắt ông bỏ đạo. Bắt ép không được, các quan lại khuyên dụ ông: “Ông đã già rồi, con cái cũng đã khôn lớn, có nhà cửa cả, ông hãy quá khóa mà về ở với con cái, thì chẳng vui hơn sao?”

Trước ông trùm Ðích nghĩ đến những hình khổ mình sẽ phải chịu vì đạo thì sợ hãi lắm, dường như muốn sờn lòng. Tuy nhiên cha Năm, ông Lý Mỹ, ông Lý Thi và các con cái yên ủi ông, khuyên bảo ông xưng đạo vững vàng và chịu khổ ít lâu sẽ được Chúa thưởng công vì tử đạo là phúc đời đời, và để gương lại cho con cháu và bổn đạo mọi nơi. Con cháu xin ông đừng quá khóa, kẻo mang tiếng và sinh gương mù gương xấu cho những người khác và lại liều mình mất phúc Thiên Ðàng. Ông được những lời khuyên bảo và an ủi, thì mạnh dạn thưa với quan rằng: “Bẩm lạy quan lớn, về con cái thì mặc con cái, tôi đã lo liệu cho chúng nó rồi. Còn về Ðức Chúa Trời, đã có lẽ tự nhiên buộc tôi phải thờ lạy Người, có lẽ nào tôi lại dám bỏ Người. Quan lớn có tha thì tha, bằng chẳng tha thì chớ đừng ép tôi nữa”.

Có một lần quan truyền khiêng ông qua ảnh chịu nạn: hai tên lính khiêng hai đầu gông, còn hai thằng lính khác thì kéo chân ông đạp vào ảnh, nhưng ông Ðích co chân lên, nên chân không chạm ảnh. Quan truyền đánh ông hai ba lần, nhưng khi quan toan đánh ông thì ông Lý Mỹ thấy cha già nên xin chịu đòn thế cho ông. Quan chấp nhận lời xin của ông Lý Mỹ nên không đánh ông, mà chỉ đánh ông Lý Mỹ. Hơn nữa thấy ông già lão quan cũng không muốn đánh, và cũng chỉ bắt đeo gông nhẹ mà thôi.

Nhưng ông thấy con rể chịu đòn thế mình thì thương con lắm. Có lần thấy con rể bị quan đánh dữ quá, và khi ông Lý Mỹ về tới nhà giam nát cả thịt, máu me chảy ra chan hòa, thì ông trùm nói rằng: “Các quan đánh dữ quá thế này thì con chết mất, chẳng có lẽ nào sống đến ngày xử được”.

Trong án ông trùm, các quan viết tâu vua như sau: “Tên Nguyễn Khiêm xưng ra rằng: ‘Tôi 69 tuổi, quê ở làng Vĩnh Trị, có cửa nhà, vợ con và đầy tớ ở đấy, vốn theo đạo Gia Tô và quen biết đạo trưởng Mai Ngũ từ khi còn làm học trò theo tây dương đạo trưởng Giacôbê (Đức Cha Leager). Khi mới có chỉ ra cấm nhặt đạo Gia Tô, đạo trưởng Mai Ngũ đi ẩn đâu thì không biết. Song đến tháng ba (âm lịch) năm nay đạo trưởng ấy đến xin trú nhà tôị Tôi nghĩ tình quen thuộc nghĩa thiết xưa nay thì cho trú, đến ngày 11.5 (âm lịch) các quan đến vây làng Kẻ Vĩnh, thì bắt được đạo trưởng Mai Ngũ ở nhà tôi. Tên Khiêm xin cam chịu tội, chẳng dám phàn nàn. Chúng tôi đã đòi nó ra công đường cùng ra sức dỗ dành khuyên bảo và bắt khóa quá nhiều lần, nhưng mà tên ấy nói rằng: ‘Tôi theo đạo đã lâu, thà chết chẳng thà bỏ đạo’. Vì vậy chúng tôi xét rằng tên Khiêm tin theo đạo Gia Tô dù triều đình đã nghiêm cấm đạo ấy, và nó cũng chẳng chịu bỏ. Chẳng những nó không bắt đạo trưởng Mai Ngũ đem nộp cho quan, mà lại còn chứa cùng giấu trong nhà mình. Dù chúng tôi đã khuyên bảo quá khóa nhiều lần nó cũng không chịu xuất giáo. Vậy tên ấy cố tình bất tuân quốc pháp đã rõ, cho nên chúng tôi luận cho nó phải xử trảm quyết để kẻ khác biết mà sợ”.

Án ông được gửi về triều đình, và ngày 11.8.1838 vua Minh Mệnh châu phê y án. Ngày hôm sau, ông và cha Năm cùng con rể là ông Lý Mỹ bị xử trảm. Trên đường đi đến pháp trường, ông, cha Năm và ông Lý Mỹ rất vui vẻ.

Khi đến pháp trường, cha Năm quỳ xuống cái chiếu mà ông Lý Thi con ông trùm Ðích đã trải sẵn. Ba đấng cầu nguyện một lúc, sau đó quan giám sát dịch loa, tuyên án. Quan truyền xử cha Năm trước rồi ông trùm Ðích sau. Sau hết đến ông Lý Mỹ. Lý hình chém một nhát thì đứt đầu ông.

Sau khi xử tử ông trùm, ông Lý Thi được phép bỏ xác cha vào trong quan tài và khiêng về làng Kẻ Vĩnh. Dân làng ra đón rước xác ba đấng như đi rước, họ đốt đuốc và đóm để nghênh đón xác các ngài. Xác ông trùm được đem về nhà, và để ở nhà 5,6 ngày, sau đó xin cha làm lễ quy lăng và làm phép xác. Cả làng và các làng chung quanh đều đến dự lễ an táng và đưa xác về Kẻ Vĩnh và an táng trong vườn trước cửa nhà ông. Về sau con cái xây mộ ở đấy.

6177_7104IMG_29703. Cuộc xưng đạo và tử đạo của ông lý trưởng Micae Nguyễn Huy Mỹ, bị bắt ngày 3.7.1838, xử trảm ngày 12.8.1838. Ông Micae Lý Mỹ sinh năm 1804 tại trại Ðại Ðăng, giáp tỉnh Vạn Sang nay là tỉnh Ninh Bình. Ông Mỹ là trưởng nam, tên thật ông là Nguyễn Huy Diệu, khi ông lên 10 tuổi thì cha mất, rồi hai năm sau mẹ ông cũng qua đời. Ông và các em ở với người dì. Tuy nhà khó khăn thiếu thốn, nhưng bà dì vẫn liệu cho các cháu ăn học chữ nho. Ông Mỹ học sáng dạ và chăm chỉ học hành. Gia đình ông Lý Mỹ đến lập nghiệp tại làng Kẻ Vĩnh. Ở đấy ông kết hôn với cô Miện con gái ông trùm Ðích. Hai ông bà sinh được tám người con. Ông Lý Mỹ cũng có học qua nghề thuốc và có làm nghề thuốc ít nhiều. Từ bé, ông Mỹ đã có nét nghiêm nghị, khác hẳn với những trẻ đồng tuổi. Ông chẳng những siêng năng đi lễ đi nhà thờ, sớm tối đọc kinh, mà đôi khi người ta còn thấy ông đọc kinh lần hạt riêng một mình ngoài xó vườn.

Sau khi lập gia đình, ông càng ngoan đạo hơn nữa. Bà Lý Mỹ nói rằng: “Ông ấy rất siêng năng đọc kinh tối sớm, dù lúc trong nhà làm công việc cũng chẳng bỏ đọc kinh hay đọc kinh vắn tắt bao giờ. Tối nào vợ con hay đầy tớ bận bịu, hoặc phải làm việc cần nào khác ở nhà, ông bắt đọc kinh chung với nhau trước và đọc sách cho chúng tôi nghe nữa. Ông ấy xưng tội chịu lễ một năm bốn năm lần. Khi toan đi xưng tội, ông xét mình trước hai ngày cùng biên tội mình vào giấy kẻo quên”.

Vợ chồng con cái đầy tớ chẳng những đi lễ các ngày lễ cả, mà cả các ngày thường nữa. Trong mùa chay ông ăn chay một tuần hai ngày, thứ Tư và thứ Sáu. Vợ chồng hòa thuận thương yêu nhau. Ông ăn ở hiền lành với vợ con chẳng bao giờ nặng lời với vợ con. Vợ chồng ông chẳng cãi mắng nhau bao giờ. Trong suốt 18 năm trời vợ chồng ăn ở với nhau chỉ có một lần ông Lý Mỹ đánh bà ấy ba cái vì bà ấy lười không chịu đọc kinh. Bà Lý Mỹ nói rằng vợ chồng chỉ mất lòng nhau có một lần ấy mà thôi. Bà Lý Mỹ lại nói rằng: “Tôi chẳng thấy ông ấy uống rượu, đánh bạc hay là chửi bao giờ, chỉ chuyên một việc làm ăn, săn sóc cửa nhà và giữ đạo”.

Mọi người trong làng đều coi ông như gương lành để bắt chước. Có lần trai tráng trong làng Kẻ Vĩnh đến hầu cụ Phê, thì cụ bảo chúng nó rằng: “Chúng con hãy soi gương bắt chước ông đồ Diệu (ông Lý Mỹ), vì ông ấy thật là người có nết na hẳn hoi và giữ đạo sốt sắng”.

Lần kia khi thầy đồ có đạo đã dạy ông Mỹ ngày trước qua đời, các học trò ngoại đạo muốn an táng thầy theo kiểu ngoại đạo, nhưng ông Lý Mỹ không bằng lòng. Dù học trò ngoại đạo là đàn anh trưởng tráng, và số học trò ngoại đông hơn mặc lòng, ông Mỹ nhất quyết phản đối và rước các thầy kẻ giảng về đưa xác ông đồ như phép đạo quen làm.

Ông Mỹ thương kẻ khó, và bố thí cho họ. Có năm mất mùa, thiên hạ đói khổ, ông truyền nấu cháo cho kẻ khó ăn, vì ông sợ cho gạo, họ sẽ ăn xong và đau bụng mà chết.

Tuy còn trẻ, nhưng tư cách và uy tín của ông đáng kính phục. Ông là người sắc sảo giỏi giang, ông ăn ở chính trực và ăn nói lý sự. Có lần trong làng khuyết một chân cai tổng, lý trưởng trong làng đến nhà ông xin ông ra làm việc chung, nhưng ông không chịu. Về sau ông lại được bầu làm lý trưởng, ông cũng không nhận. Ðức cha Dụ phải khuyên bảo ông nhận làm lý trưởng để bênh đỡ nhà chung và giữ dân trong thời buổi cấm đạo ông mới vâng lời ra làm lý trưởng.

Trong thời gian làm lý trưởng, ông điều hành rất giỏi. Ðức cha Liêu sau này làm chứng rằng nhà chung và dân làng nhờ ông rất nhiều. Ông chẳng ăn bớt của dân chút nào mà có khi còn bỏ của nhà ra làm việc chung. Người ta kiện cáo nhau hay con cái kiện tụng chia của đều đến với ông Lý Mỹ, vì ông xử sự rất công bằng. Khi đã lo liệu việc gì cho ai mà họ đem lễ vật đến tặng dù ít dù nhiều ông cũng không nhận. Người ta có biếu ông một hai trăm cau ông mới nhận, mà chẳng tạ gì cũng chẳng sao.

Khi phải sửa phạt dân, ông đánh đòn sửa phạt thẳng thắn chẳng thiên vị một ai. Cho nên dù ở trong làng hay ở ngoài đồng chẳng ai lấy trộm của ai. Cả hàng tổng đều khen ngợi làng Kẻ Vĩnh nghiêm hơn các làng khác. Ban đêm ông Lý Mỹ đi dọ bắt những kẻ đánh bạc. Có lần ông bắt bạc, và trong số bị bắt có người đầy tớ riêng của ông ở trong số đó. Anh này kể lại: “Một lần ông ấy bắt được tôi cùng ba anh nữa đang đánh bạc, ông ấy đánh mọi người 40 roi, còn phần tôi là đầy tớ riêng ông ấy nên ông ấy đánh 60 roi”.

Những người đàn bà hay la lối chửi rủa, ông cũng đánh. Trong làng Kẻ Vĩnh có người đàn bà hoang thai đã hai lần, đền lần thứ ba có người bàn với ông Lý Mỹ đuổi bà ta ra khỏi làng, nhưng ông Lý Mỹ không nghe lại nói rằng: “Phải để nó ở đây, hoặc sau này nó ăn năn sửa mình lại chăng. Nếu đuổi nó đi, nó sẽ đi với kẻ ngoại đạo mà mất linh hồn”.

Thấy cách xử sự của ông với người ngoại tình ai cũng khen ông có tính thương người, chỉ mong cho người ta sửa mình. Khác hẳn với cách phạt của các làng bên ngoài là gọt đầu bôi vôi và thả bè trôi sông cho chết. Khi cần phải sửa phạt ai, ông không phạt vì nóng giận hay gắt gỏng. Ông ấy vừa truyền đánh người ta vừa nói truyện vui vẻ như thường, coi như đó là phép tắc phải vậy.

Có nhiều người có đạo khi chưa làm quan thì đạo đức, sau khi ra làm quan lại bỏ bê việc đạo, hoặc lấy lẽ bàn việc chung rồi bỏ bê việc đi nhà thờ, xưng tội rước lễ. Trái lại, ông Lý Mỹ dù đang làm lý trưởng ông vẫn đọc kinh đi lễ như khi trước. Ông chẳng những coi sóc việc đời mà còn làm gương việc đạo nữa. Ở làng Kẻ Vĩnh, theo tục lệ ai làm lý trưởng thì cũng đứng đầu phiên tuần. Tối nào, ông Lý Mỹ cũng bắt những người phiên tuần họp nhau đọc kinh tối rồi mới cho đi canh gác. Trong tuần làm phúc, ông đích thân đi khám xét xem các trẻ em có đi học đầy đủ không. Kẻ khô khan không đi xưng tội vì lấy lẽ nghèo đói không có giờ mà dọn mình, ông ấy gọi đến nhà cho ăn uống, rồi bắt đi xưng tội. Có người nói rằng khi ông làm lý trưởng ông luôn khuyên bảo dân làng phải đi xưng tội. Với các bậc đàn anh trong làng ông cũng khuyên bảo giục giã họ đi xưng tội, còn những kẻ đàn em thì ông lấy quyền để dọa ép vào tòa giải tội. Có lần trong mùa chay, ông mời hàng xã đến nhà ông ăn uống và bàn việc làng. Ðang bữa tiệc, ông cũng khuyên bảo giục giã mọi người đi xưng tội trong mùa chay. Ông dọa nếu những người trong làng mà không đi xưng tội thì ông sẽ nộp sổ với bề trên, còn kẻ đến trú ẩn trong làng mà không đi xưng tội thì ông sẽ đuổi ra khỏi làng.

Ðối với những người tu trì, ông Lý Mỹ rất khiêm nhường tôn kính. Ông còn khuyên những người khác phải tôn kính các người đã dâng mình cho Chúa. Dưới thời cấm đạo, nhà chung Kẻ Vĩnh phải tản mác, các tu sĩ và giáo sĩ ẩn núp trong làng Kẻ Vĩnh dưới sự che chở của ông. Có lần quan đến vây làng khi Đức Cha và các cha đang ẩn ở trong làng chưa kịp chạy. Ông Lý Mỹ gân góc không sợ gì, ông ra kinh dẫn các quan khám mỗi nhà, làm bộ như ông rất nhiệt thành tuân theo chỉ thị của vua đi lùng bắt các giáo sĩ, nhưng kết cuộc chẳng bắt được một đấng nào. Ông còn luôn luôn khuyên bảo mọi người phải ăn ở và tin vững vàng trong thời cấm cách này. Có một lần ông vào trong nhà các bà dòng, và bảo các nữ tu rằng: “Bây giờ vua cấm đạo thì cũng như là khóa thi Ðức Chúa Trời ra, cho nên ta phải ý tứ và ăn ở cho vững vàng”.

Khi ông Trịnh Quang Khanh bắt lính Công Giáo trong tỉnh Nam Ðịnh phải bỏ đạo, lúc đó ông Lý Mỹ đang phụ trách việc đê điều ở nơi xa. Ông liền gửi thư cho bốn người lính của làng Vĩnh Trị đang ở tỉnh khuyên họ: “Xin anh em chịu khó, đừng quá khóa, chẳng mấy ngày nữa tôi sẽ về nhà, và tôi sẽ ra với anh em”.

Ông Lý Mỹ vẫn ao ước được phúc tử đạo từ lâu. Có lần ông hỏi bà Lý Mỹ rằng: “Nếu ta được phúc tử vì đạo, thì mẹ nó có bằng lòng chăng?”

Bà Mỹ đáp lại rằng: “Thày nó được phúc trọng ấy, thì tôi bằng lòng lắm chứ”.

Ông Lý Mỹ nghe như thế thì bằng lòng lắm. Thực là một cử chỉ anh hùng và hy sinh vì Chúa của bà Mỹ. Ông nói lời trên với vợ ngày hôm trước thì hôm sau quan đến vây làng và ông bị bắt.

Ðược tin quan quân đến làng, ông Lý Mỹ đã linh cảm có gì xảy ra, nên cho người báo với ông trùm Ðích: “Cha con ta đồng sinh đồng tử với nhau, việc Ðức Chúa Trời định đã đến rồi”.

Ông Trịnh Quang Khanh còn cho đòi các tráng đinh từ 18 tuổi trở lên phải điểm danh tại đình làng. Ông còn bảo kỳ mục trong làng rằng: “Bao nhiêu đạo trưởng trong làng thì phải nộp hết, bằng không thì mất đầu”.

Ông Lý Mỹ thưa lại quan: “Bẩm lạy quan lớn, quan lớn đến dân chúng tôi, quan lớn khám bắt được đạo trưởng hay là đồ đạo, thì tôi xin nộp đầu”.

Lý trưởng thưa quan lớn xong, quan truyền ông phải làm giấy và ký tên vào.

Ðang khi ông Lý Mỹ cùng quan làm giấy tờ, thì lính đã bbắt được cha Năm và ông trùm Đích và dẫn đến trước mặt quan. Bấy giờ quan gọi ông Lý Mỹ tới trước mặt và nói: “Tờ giấy này mày tính làm sao?”

Ông Lý Mỹ thưa vững tiếng rằng: “Bẩm quan lớn, tôi xin chịu tội”.

Quan lại hỏi ông: “Làm sao mày dám khinh mạn phép vua như vậy?”

Ông Mỹ đáp lại: “Bẩm lạy quan lớn, nếu quan lớn thương thì chúng tôi nhờ hồng phúc của quan lớn, bằng quan lớn bắt tội thì chúng tôi cam chịu”.

Bấy giờ quan tức giận truyền nọc ông Lý Mỹ ra đánh 40 roi đòn. Ông đau lắm song can đảm không kêu than một tiếng nào. Quan đánh xong mới truyền đóng gông giải cả ba người lên tỉnh. Ðến trưa về tới đồn Lục Bộ, quan lại hỏi ông có bỏ đạo không thì cho về, nhưng ông nhất định không chịu bỏ đạo. Ở Lục Bộ, một người huynh thứ trong làng Kẻ Vĩnh đến bàn với ông về việc hối lộ để chuộc ông ra, nhưng ông Lý Mỹ không chịu lại nói rằng: “Xin cám ơn dân có lòng, dân có lòng thì trả ơn dân, nhưng đừng chạy chuộc tội, xin để tiền ấy mà giúp vợ con tôi và làm bữa mừng khi đem xác tôi về”.

Khi đến tỉnh Nam Ðịnh, ông Lý Mỹ cũng bị giam một trại với cha Năm, và ông trùm Ðích. Về phần cha Năm các quan biết ngài là đạo trưởng, nên sau mấy lần khuyên nhủ mà vẫn thấy ngài vững lòng nhất định không bỏ đạo, nên cũng chẳng giục ép ngài nữa. Còn ông trùm Ðích đã già nua nên quan cũng không muốn làm khó ông nữa. Chỉ có ông Lý Mỹ bị hành hạ khổ sở hơn hết vì các quan thấy ông còn trẻ trung lại có tài mới ra mật lệnh đánh đập để cho ông sợ mà đành chịu bỏ đạo. Vì thế ông bị hành hạ rất khổ sở trước khi ông bị xử trảm. Ông chẳng những chịu đòn phần mình mà còn vì thương cha vợ là ông trùm Ðích, ông xin chịu đòn thế cho ông trùm. Tính ra ông phải bị đánh đến hơn 500 roi đòn, hai mông rách nát cả thịt ra chẳng còn nơi đâu lành. Cổ chân cổ tay sưng đầy lên vì nọc thẳng quá, và còn bị đeo gông cùm nặng nề. Tuy bị đòn đau như thế mà ông vẫn can đảm không kêu ca. Ðến nỗi có quan phải thốt lên: “Thằng này chết đoạn sẽ làm thành hoàng đất của nó. Thằng này chẳng phải là người vừa đâu”.

Ngoài ra các quan còn làm hết cách để dụ dỗ ông. Có khi dụ dỗ cùng lúc với cha Năm và ông trùm Ðích, có khi thì dụ dỗ riêng một mình ông. Có lần quan bảo ông: “Mày là thằng giỏi giang lại trẻ tuổi, lý sự và coi sóc dân làng giỏi, ai cũng được nhờ, sao mày dại mà chẳng chịu quá khóa đi?”

Ông Mỹ thưa lại: “Sao tôi lại dại? Khi chưa có tôi thì đã có dân, thế thì ai coi sóc dân lúc bấy giờ? Nhưng mà linh hồn tôi thì tôi phải coi giữ, cho nên tôi chẳng bỏ linh hồn tôi mà nghe lời quan đâu”.

Quan lại bảo: “Sao mày chẳng thương vợ con? Con cái còn bé mọn yếu đuối, sao mày nỡ quên tình cha mà không thương con thế vậy? Dù chúng tao chỉ nghĩ tới hay trông thấy chúng nó thì cũng xót còn mày mê man làm sao mà chẳng quá khóa đi?”

Ông Lý Mỹ thưa lại quan: “Tôi tính sao hả? Tôi có mê đâu! Vợ con là của Ðức Chúa Trời phó cho tôi, tôi coi sóc dạy dỗ khi có thể làm được. Mà bây giờ Ðức Chúa Trời định cho tôi ở trong tay quan lớn, thì tôi cũng phải vâng ý Người, cũng như vợ con tôi phải vâng ý tôi. Sao ông lại bảo lăng nhăng xàng xiên rằng tôi phải bỏ đạo, bỏ Ðức Chúa Trời là phải lẽ sao?”

Có một lần quan truyền cho lính kéo ông qua ảnh thánh giá. Quân lính lôi ông qua và reo lên: “Anh này quá khóa rồi”.

Lúc đó ông Lý Mỹ kêu lên: “Bẩm lạy quan lớn, ông lớn kéo voi qua thập tự thì cũng được, nhưng mà chúng tôi nhất định không chịu bước qua Chúa chúng tôi thờ đâu!”

Thấy ông trả lời khôn ngoan, các quan lại càng bực tức làm như chẳng lẽ mình lại thua một thằng tù. Các quan càng ra lệnh hành hạ ông hơn nữa. Có lần đến trước quan án, mà quan cứ giục ông phải bỏ đạo, nên ông nói chọc quan lớn: “Giả như giặc giã đến đây mà truyền cho chúng tôi đập đầu quan lớn để chúng tôi được sống, thì chúng tôi dám làm, nhưng Chúa chúng tôi thờ thì chúng tôi chẳng dám làm đâu”.

Quan nghe vậy tức giận quá, liền cầm cái quạt ném vào mặt ông trúng vào con mắt ông, ông đau đớn quá ngã xuống sân.

Lần khác quan hỏi ông Lý Mỹ: “Thiên Ðàng là gì?”

Ông Lý Mỹ chẳng cắt nghĩa Thiên Ðàng là làm sao, chỉ thưa với quan rằng: “Lát gươm quan lớn ban cho tôi là đường đi lên Thiên Ðàng đấy”.

Có lần khác quan thương tình khuyên bảo ông: “Mày còn trai tráng, và giỏi giang. Mày đã làm lý trưởng, nếu biết điều mày cũng có thể trở nên giàu sang, và được phong lưu sống lâu. Mày hãy quá khóa đi, thì được về nhà ở với vợ con. Nhiều kẻ khác đã quá khóa rồi, sao mày chẳng bắt chước chúng nó quá khóa, khi về nhà thì mày muốn giữ đạo thế nào cũng được”.

Ông Lý Mỹ thưa lại quan: “Bẩm lạy quan, tôi đã xem sách đạo và hiểu lẽ đạo, tôi đã biết đạo Ðức Chúa Trời là đạo thật cho nên tôi không thể bỏ được. Giả như có ai bảo quan lớn đập đầu Ðức Hoàng Ðế đã ban quyền cao chức trọng cho quan, ắt là quan lớn chẳng dám làm. Vậy tôi dám đạp ảnh Ðức Chúa Trời là Chúa tôi thờ làm sao được? Tôi chẳng tiếc sự sống hèn sống tạm ở đời này, vì thế nào tôi cũng phải chết. Nếu chẳng chết trước thì cũng chết sau. Còn về của cải chức quyền thì xin quan lớn biết rằng chẳng có chức quyền và của cải nào sánh bằng phúc trọng tôi sẽ được chết vì đạo. Tôi vốn thương vợ con tôi lắm, nhưng tôi sẵn lòng lìa bỏ họ vì tôi biết rằng Ðức Chúa Trời sẽ coi sóc chúng nó, và ngày sau sẽ cho tôi được gặp họ trên Thiên Ðàng. Quan lớn dạy rằng có nhiều người bỏ đạo. Vậy những thằng lính vì sợ giặc bỏ chạy cũng bỏ thầy mình thì có ra gì? Tại sao quan lớn lại dạy tôi bắt chước chúng nó?”

Bà Lý Mỹ có lần bế con mới sinh được mấy tháng ra tỉnh thăm chồng cũng yên ủi khuyên bảo chồng chịu khó cho trọn, đừng lo cho vợ con làm chi. Vì nhờ ơn Chúa giúp sức thì mình cũng có thể ra sức dạy dỗ chúng nó được. Con gái lớn ông tên là Mỹ, mới 12 tuổi, đi trộm mẹ ra tỉnh mất gần nửa ngày trời để thăm cha trong ngục. Nó phải qua 2,3 lần cửa lính canh rất ngặt. Ðến gặp ông, nó thưa ông rằng: “Xin cha hãy chịu khó chịu chết vì đạo”.

Ðứa con trai ông lên 9 tên là Tường, nhỏ quá không lên thăm bố được, nên nhắn những người lên tỉnh thăm cha thưa rằng: “Xin cha đừng có quá khóa, cứ vững lòng xưng đạo ra và chịu chết vì đạo, đừng lo đến chúng con làm chi”.

Thật là một hồng phúc cho ông. Mọi người thân yêu đều có lòng tin mạnh mẽ, khuyến khích ông can đảm chết vì Chúa. Thấy vợ con có lòng sốt sắng và đạo nghĩa như vậy, ông rất an ủi. Ông nhắn bảo con cái ở nhà giữ đạo cho vững vàng và trông cậy Ðức Chúa Trời thương xem phù hộ cho. Những người ra thăm ông tại nhà tù, ông cũng khuyên bảo họ giữ đạo hẳn hoi. Ông chẳng hỏi thăm tin tức trong làng thế nào, cũng chẳng nói truyện trò nào khác. Thấy cha vợ là ông trùm Ðích đã già yếu, lại có tính sợ đòn, phàn nàn không biết có bền vững chịu các hình khổ không, thì ông Lý Mỹ khuyên cha vợ: “Cha đã già rồi, lại yếu đuối, chẳng trông sống được bao lâu nữa, nếu cha chẳng chết vì đạo khi này, thì chẳng bao lâu nữa cha cũng chết bệnh. Nhưng nếu cha chết vì đạo, thì sẽ làm sáng danh đạo và sẽ được phúc thanh nhàn vui vẻ trên Thiên Ðàng đời đời. Nếu cha xuất giáo mà về nhà phải chết bệnh thì sẽ mang tiếng là kẻ bỏ đạo cùng liều mình mất linh hồn. Giả như có ai mến tiếc sự sống đời này, thì phải là con, vì con còn trẻ tuổi, khỏe mạnh. Nhưng con chẳng tiếc sự sống, lại vui lòng bỏ sự sống cho danh Ðức Chúa Trời được cả sáng. Con cái cha đã lớn rồi. Cha có sống ở với chúng nó thì cũng chẳng giúp chúng nó được việc gì. Nếu cha chết vì đạo thì sẽ làm gương sáng cho chúng nó và làm cho chúng nó được trọng trước mặt người ta. Vợ con còn trẻ tuổi, bốn đứa con của con còn bé dại chưa làm được gì mà ăn, nhưng con tin thật Ðức Chúa Trời đã sinh chúng nó ra, thì người cũng sẽ nuôi chúng nó nữa. Vả lại khi con đã được lên Thiên Ðàng thì con sẽ cầu nguyện cho chúng nó. Khi cha nghĩ đến những đòn vọt cha phải chịu chỉ lo sợ chẳng biết có chịu được chăng, song cha đừng lo, đừng sợ làm chi. Vì con sẽ chịu đỡ cho cha. Vậy xin cha hãy cứ vững lòng xưng đạo ra cùng làm chứng cho thiên hạ biết ta là kẻ tin cùng giữ đạo thật lòng và ta sẵn lòng chịu chết vì Ðức Chúa Giêsu đã chịu chết cho chúng ta”.

Ông Lý Mỹ nói thế nào thì giữ như vậy. Hễ lần nào quan toan đánh ông Ðích thì ông lại xin quan: “Lạy quan lớn, cha tôi già nua tuổi tác cùng yếu đuối, xin quan lớn tha cho cha tôi, tôi xin chịu đòn thay cho cha tôi”.

Quan thấy ông có lòng hiếu thảo, thì ưng tha cho ông trùm Ðích và đánh ông Lý Mỹ. Có lần ông Mỹ chịu đòn thay cho ông trùm Ðích về, thì nói với ông trùm Ðích rằng: “Lạ thay bởi ơn Ðức Chúa Trời thương, khi quan đánh, thì con không thấy đau là mấy”.

Ông nói vậy, nhưng mọi người đều biết rõ ông bị đòn rất đau. Khi về đến ngục, quần áo ông đã rách nát hết và máu me chảy đầm đìa cả. Thấy con chịu đòn thay mình đau đớn như vậy, ông trùm Ðích rất thương con. Cha Năm, ông trùm và ông Lý Mỹ nhất quyết đổ máu mình ra vì Chúa. Ba ngày trước khi xử, ông Lý Mỹ nói rằng: “Các đau đớn đã khỏi cả chỉ trừ có một chỗ đau chưa khỏi mà thôi.”

Có người đến thăm ông đem ý nghĩ liệu cách để cho ông được tha, ông liền mắng lại: “Ai khiến các anh đến thăm tôi mà nói những điều càn dở như vậy? Tôi có về thì các anh sẽ khóc, nhưng khi đem xác tôi về làng, thì các anh sẽ mừng”.

Các quan thấy khuyên nhủ ông bỏ đạo cũng vô ích, nên làm án tâu vua rằng: “Chúng tôi đã xét việc tên Mỹ là lý trưởng xã Vĩnh Trị, tên ấy xưng mình sinh bởi cha mẹ có đạo ở xã Vĩnh Trị. Năm nay 34 tuổi, và làm lý trưởng từ năm Ðức Hoàng Ðế thập lục niên. Tên ấy xưng mình có đạo, cam lòng chịu tội, chẳng dám phàn nàn. Chẳng những nó không bắt nộp đạo trưởng Mai Ngũ, lại còn giấu ông ta ở xã mình. Dù chúng tôi đã khuyên bảo cùng bắt ép quá khóa nhiều lần, nó cũng không chịu, nó cứ một mực chấp mê bất khẳng quá khóa, đó là bất tuân quốc pháp. Cho nên chúng tôi luận cho nó phải xử trảm quyết để làm gương cho kẻ khác sợ”. Vua chuẩn y án này.

Ngày 11.8.1838 án đến tỉnh Nam Ðịnh, và ngày hôm sau ông Lý Mỹ, cha Năm, và ông trùm Ðích cùng bị xử trảm ở pháp trường Bảy Mẫu. Các ngài đã chuẩn bị và dọn mình kỹ lưỡng nên được tin ấy các ngài vui mừng hết sức. Khi đi chịu chết ông Lý Mỹ vui mừng, nhanh chân nhẹ bước đi trước, vừa đi vừa chào hỏi mọi người. Miệng ông hát kinh tạ ơn Ðức Chúa Trời, tay ông gõ nhịp cùng rung xiềng xích tỏ ra rất vui vẻ. Kẻ ngoại đạo thấy ông mặt mũi vui tươi hớn hở thì khen ông là người anh hùng can trường. Trên đường đi ông gặp ông cả Thâu là anh em họ, con chú bác. Ông Thâu nói với ông Mỹ: “Anh Lý hãy vững vàng nhé”.

Ông Mỹ thưa lại: “Anh hãy yên trí tôi chẳng có sợ đâu”.

Ðến nơi xử, ba đấng quỳ trên chiếc chiếu mà ông Lý Thi con ông trùm Ðích trải sẵn. Các ngài cầu nguyện. Sau khi đọc bản án từng người, quan truyền lệnh xử tử tù nhân. Ông Lý Mỹ xin quan xử cha Năm và ông trùm Ðích trước. Quan ưng thuận lời xin của ông. Sau khi xử hai đấng, tên lý hình đòi ông Lý Mỹ năm quan tiền thì sẽ xử một nhát mát mẻ. Nhưng ông bảo rằng: “Năm quan tiền để làm phúc cho kẻ khó, chẳng có tiền cho chú mình đâu, muốn băm vằm thế nào thì mặc”.

Lý hình bực tức, chém một nhát trượt không đúng, chỉ đứt một miếng thịt nơi cằm, ông Lý Mỹ ngã xuống. Mãi đến nhát thứ năm mới đứt đầu.

Ông bị xử ngày 12.8.1838. Sau khi xử tử, quan cho phép ông Lý Thi được khiêng xác ba đấng về làng Kẻ Vĩnh. Ðến đêm xác mới về tới làng. Dân làng và các làng bên đốt đuốc và đánh trống ra đón rước xác các ngài về rất vui vẻ mừng rỡ như ngày hội. Sau này bớt cấm đạo Đức Cha và nhà chung cùng bổn đạo hay ra viếng mồ ba đấng. Mỗi khi có lễ trọng và lễ quan thầy Đức Cha, giáo dân lại đến viếng xác ba đấng. Dân chúng đến lần hạt và ngắm Ðàng Thánh Giá. Trong ba đấng thì dân chúng quý ông Thánh Mỹ hơn cả. Ðúng như lời các quan đã tiên đoán về ông: “Tên này sau khi chết sẽ làm thành hoàng đất nó” [3].

II. BA THÁNH TỬ ĐẠO ĐÍCH THỰC LÀ TỬ ĐẠO KYTÔ HỮU

Tuyên phong hiển thánh 117 vị tử đạo ở Việt Nam, ngày 19.06.1988 tại Rôma, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã dựa vào Phúc Âm Thánh Matthêu chương X và Thư 1 của thánh Phaolô Gửi Tín Hữu Cô-Rin-Tô để phân tích những nét chính yếu trong những cuộc xưng đạo của các thánh tử đạo ở Việt Nam [4]. Những nét chính yếu này xác định tính chất xác thực tử đạo vì Chúa Kytô. Những nét chính yếu này đã rõ ràng được nhìn thấy trong cuộc xưng đạo và tử đạo của tất cả 117 thánh tử đạo Việt Nam, cũng như riêng cho ba Thánh Linh Mục Năm, Thánh Trùm Đích và Thánh Lý Mỹ.

1. Ba thánh đã bị theo dõi, bị tố cáo và bị bắt, nộp cho quan, vì là Công Giáo. Cả ba thánh đều là những người lương thiện. Nhưng cả ba đều là Công Giáo, tin vào Thiên Chúa. Và vì vậy, vua quan Việt Nam ghét bỏ các ông và muốn giết hại các ông. Lệnh vua đòi phải xử tử các đạo trưởng, xử tử những người chấp chứa các đạo trưởng, xử tử những quan quyền không tố cáo các đạo trưởng trong đĩa hạt của mình. Và sự gì phải đến, đã đến. Họ đã cho mật thám giả làm gia nhân, để lấy tin tức. Khi biết rõ tính thế, họ đã đưa lính tráng đến nhà vây bắt. Khi bị nhận diện, cha Năm đã chẳng chối, mà còn xác nhận: “Phải tôi là cụ đạo đấy”. Do vậy lính tráng đã bắt cha Năm và bắt cả ông trùm Đích giải nộp cho quan. Bấy giờ quan gọi ông Lý Mỹ tới trước mặt và nói: “Tờ giấy này mày tính làm sao? Mày đã ký nhận trong làng không có đạo trưởng, mà nếu khám bắt được đạo trưởng hay là đồ đạo, thì mày xin nộp đầu” ? Ông Lý Mỹ thưa vững tiếng rằng: “Bẩm quan lớn, tôi xin chịu tội”. Quan lại hỏi ông: “Làm sao mày dám khinh mạn phép vua như vậy”? Ông Mỹ đáp lại: “Bẩm lạy quan lớn, nếu quan lớn thương thì chúng tôi nhờ hồng phúc của quan lớn, bằng quan lớn bắt tội thì chúng tôi cam chịu”.

Quả đúng như lời Chúa Kytô đã tiên báo về số phận của những người theo ngài. “Anh sẽ nộp em, cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên tố cáo làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Cha, chúng con sẽ bị mọi người ghét bỏ, nhưng ai bền chí đến cùng sẽ được cứu độ” (Mt 10:21-22).

2. Ba thánh đã bị bị đánh đập giữa hội đường, bị điệu ra trước tòa quan quyền vì tin vào Chúa Kytô. Bấy giờ quan tức giận truyền nọc ông Lý Mỹ ra đánh 40 roi đòn. Trong suốt thời gian bị giam giữ, ông Lý Mỹ nhiều lần bị Quan Tổng đốc nổi giận truyền đánh đòn, tính tổng cộng ông Lý Mỹ đã phải chịu đến 500 roi, kể cả ba lần chịu đòn thay cho nhạc phụ. Ông đau lắm song can đảm không kêu than một tiếng nào. Quan đánh xong mới truyền đóng gông giải cả ba người lên tỉnh. Ðến trưa về tới đồn Lục Bộ, quan lại hỏi ông có bỏ đạo không thì cho về, nhưng ông nhất định không chịu bỏ đạo. Ở Lục Bộ, một người huynh thứ trong làng Kẻ Vĩnh đến bàn với ông về việc hối lộ để chuộc ông ra, nhưng ông Lý Mỹ không chịu lại nói rằng: “Xin cám ơn dân có lòng, dân có lòng thì trả ơn dân, nhưng đừng chạy chuộc tội, xin để tiền ấy mà giúp vợ con tôi và làm bữa mừng khi đem xác tôi về”.

Khi đến tỉnh Nam Ðịnh, ông Lý Mỹ cũng bị giam một trại với cha Năm, và ông trùm Ðích. Về phần cha Năm các quan biết ngài là đạo trưởng, nên sau mấy lần khuyên nhủ mà vẫn thấy ngài vững lòng nhất định không bỏ đạo, nên cũng chẳng giục ép ngài nữa. Còn ông trùm Ðích đã già nua nên quan cũng không muốn làm khó ông nữa. Chỉ có ông Lý Mỹ bị hành hạ khổ sở hơn hết vì các quan thấy ông còn trẻ trung lại có tài mới ra mật lệnh đánh đập để cho ông sợ mà đành chịu bỏ đạo. Vì thế ông bị hành hạ rất khổ sở trước khi ông bị xử trảm. Tuy bị đòn đau như thế mà ông vẫn can đảm không kêu ca. Ðến nỗi có quan phải thốt lên: “Thằng này chết đoạn sẽ làm thành hoàng đất của nó. Thằng này chẳng phải là người vừa đâu”.

Lời Chúa tiên báo cho các tông đồ và cho các môn đệ các ngài trong mọi thời đại, lời tiên báo một cách hết sức rõ rệt, không có úp mở đã xẩy ra cho ba thánh: “Họ sẽ lôi chúng con ra tòa công nghị, sẽ đánh đập chúng con giữa hội đường, sẽ điệu chúng con ra trước vua chúa quan quyền vì danh Cha, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại” (Mt 10:17-18).

3. Bị tra khảo, có lúc ông trùm Đích lo sợ, muốn sờn lòng, khi nghĩ đến những hình khổ sẽ phải chịu. Quả thật, cứ lý tự nhiên, nghĩ đến những hình phát dã man mà nhà cầm quyền thời đó đã mang ra xử các vị tử đạo, ai mà không bị tinh thần khủng bố? Bá đao, xử tử với lý hình dùng dao cắt xẻo từng miếng thịt trên thân thể cho đủ 100 miếng. Lăng trì, xử tử bằng chặt chân chặt tay trước khi chém đầu. Thiêu sinh, xử tử bằng thiêu sống. Trảm, xử tử bằng chém đầu. Giảo, xử tử bằng tròng dây vào cổ và kéo hai đầu dây cho đến chết. Rũ tù, xử tử bằng tra tấn, hành hạ đủ cách đủ kiểu, rồi bỏ đói cho tới khi kiệt sức và chết gục trong tù. Hình phạt nào cũng kinh khủng, cũng đáng khiếp sợ. Và chịu chết khổ hình như vậy để làm chứng cho Chúa Kitô tử nạn, sự kiện đó há chẳng phải là khôn ngoan, là mãnh lực vượt mức loài người đó ư? Thần Linh chính là Thần Linh chân lý. Ngài có đã là mãnh lực trong thân xác yếu hèn của con người? Ông Lý Mỹ mỗi lần thấy quan toan đánh ông trùm Ðích thì lại xin quan: “Lạy quan lớn, cha tôi già nua tuổi tác cùng yếu đuối, xin quan lớn tha cho cha tôi, tôi xin chịu đòn thay cho cha tôi”. Quan thấy ông có lòng hiếu thảo, thì ưng tha cho ông trùm Ðích và đánh ông Lý Mỹ. Có lần ông Mỹ chịu đòn thay cho ông trùm Ðích về, thì nói với ông trùm Ðích rằng: “Lạ thay bởi ơn Ðức Chúa Trời thương, khi quan đánh, thì con không thấy đau là mấy”. Ông Trùm Đích có đã nhờ Thần Linh Chúa là mãnh lực mà có thể thành chứng nhân chăng?

4. Nhưng rút cục cả ba thánh đều đã can đảm trả lời xưng đức tin một cách công khai và rõ rệt, để làm chứng rằng đạo Thiên Chúa là đạo thật. Nhưng Thánh Thần Chúa đã đến khuyên bảo và khích lệ ông Trùm Đích qua miệng của cha Năm và của các con cái ông, như ông Lý Mỹ, ông Lý Thi. Ông trùm Đích trở thành mạnh dạn, can đảm.

Khi Quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh dùng mọi phương thế, từ thuyết phục đến tra tấn, để bắt ông trùm Đích bỏ đạo: “Ông đã cao niên, các con đã trưởng thành, các cháu chắt đông đảo, có nhà cửa phong lưu, ông hãy quá khóa để vui hưởng tuổi già với đàn con cháu có hơn không?”. Ông trùm Đích trả lời với giọng vững vàng: “Thưa quan, con cháu chi cũng mặc, tôi đã lo liệu cho chúng. Tôi có bổn phận tôn thờ Thiên Chúa, quan tha hoặc kết tội thì tùy, chứ đừng ép tôi bỏ đạo”.

Quan truyền khiêng ông qua Thánh Giá nhưng ông co hai chân lên, tức giận quan truyền đánh đòn ông. Vì phải mang gông xiềng, bị tra tấn lại thấy mình già nua yếu đuối, có lúc ông tưởng không chịu nổi gian truân thử thách đến cùng, nhưng may mắn ông vẫn kiên trung tới ngày tử đạo, nhờ ơn Chúa giúp, nhờ sự khuyên nhủ của cha Năm, nhờ lời khích lệ của các bạn tù, nhất là nhờ tấm lòng hy sinh cao cả của con rể chí hiếu, Micae Lý Mỹ. Ông Lý Mỹ sau khi lãnh phần mình xong, ba lần chịu đòn thay cho nhạc phụ, ông trùm Đích được mang gông nhẹ hơn.

Thấy không thể khuyên dụ ông trùm Đích bỏ đạo, quan làm sới tâu về kinh. Đây là nội dung sớ tâu luận tội: “Tên Đích tin theo và thực hành tà đạo, dù đã bị cấm. Đã không nộp đạo trưởng Mai Năm cho quan, lại còn chứa chấp, không nghe lời khuyên cáo dạy bảo, nhất là không chịu quá khóa, thật là người cố chấp, bất tuân luật nước”. Chúng thần đã nhiều lần truyền buộc y quá khóa trước công đường, nhưng y trả lời: “Tôi giữ đạo từ nhỏ, tôi sẵn sàng thà chết chẳng thà bỏ đạo. Vậy xin luận xử trảm quyết làm gương cho kẻ khác”.

Riêng ông Lý Mỹ, khi đến tỉnh Nam Ðịnh, cũng bị giam một trại với cha Năm, và ông trùm Ðích. Ngoài ra các quan còn làm hết cách để dụ dỗ ông. Có khi dụ dỗ cùng lúc với cha Năm và ông trùm Ðích, có khi thì dụ dỗ riêng một mình ông. Có lần quan bảo ông: “Mày là thằng giỏi giang lại trẻ tuổi, lý sự và coi sóc dân làng giỏi, ai cũng được nhờ, sao mày dại mà chẳng chịu quá khóa đi”? Ông Mỹ thưa lại: “Sao tôi lại dại? Khi chưa có tôi thì đã có dân, thế thì ai coi sóc dân lúc bấy giờ? Nhưng mà linh hồn tôi thì tôi phải coi giữ, cho nên tôi chẳng bỏ linh hồn tôi mà nghe lời quan đâu”. Quan lại bảo: “Sao mày chẳng thương vợ con? Con cái còn bé mọn yếu đuối, sao mày nỡ quên tình cha mà không thương con thế vậy? Dù chúng tao chỉ nghĩ tới hay trông thấy chúng nó thì cũng xót còn mày mê man làm sao mà chẳng quá khóa đi”? Ông Lý Mỹ thưa lại quan: “Tôi tính sao hả? Tôi có mê đâu! Vợ con là của Ðức Chúa Trời phó cho tôi, tôi coi sóc dạy dỗ khi có thể làm được. Mà bây giờ Ðức Chúa Trời định cho tôi ở trong tay quan lớn, thì tôi cũng phải vâng ý Người, cũng như vợ con tôi phải vâng ý tôi. Sao ông lại bảo lăng nhăng xàng xiên rằng tôi phải bỏ đạo, bỏ Ðức Chúa Trời là phải lẽ sao? ”

Có một lần quan truyền cho lính kéo ông qua ảnh thánh giá. Quân lính lôi ông qua và reo lên: “Anh này quá khóa rồi”. Lúc đó ông Lý Mỹ kêu lên: “Bẩm lạy quan lớn, ông lớn kéo voi qua thập tự thì cũng được, nhưng mà chúng tôi nhất định không chịu bước qua Chúa chúng tôi thờ đâu”! Thấy ông trả lời khôn ngoan, các quan lại càng bực tức làm như chẳng lẽ mình lại thua một thằng tù. Các quan càng ra lệnh hành hạ ông hơn nữa. Có lần đến trước quan án, mà quan cứ giục ông phải bỏ đạo, nên ông nói chọc quan lớn: “Giả như giặc giã đến đây mà truyền cho chúng tôi đập đầu quan lớn để chúng tôi được sống, thì chúng tôi dám làm, nhưng Chúa chúng tôi thờ thì chúng tôi chẳng dám làm đâu”. Quan nghe vậy tức giận quá, liền cầm cái quạt ném vào mặt ông trúng vào con mắt ông, ông đau đớn quá ngã xuống sân.

Có lần khác quan thương tình khuyên bảo ông: “Mày còn trai tráng, và giỏi giang. Mày đã làm lý trưởng, nếu biết điều mày cũng có thể trở nên giàu sang, và được phong lưu sống lâu. Mày hãy quá khóa đi, thì được về nhà ở với vợ con. Nhiều kẻ khác đã quá khóa rồi, sao mày chẳng bắt chước chúng nó quá khóa, khi về nhà thì mày muốn giữ đạo thế nào cũng được”.

Ông Lý Mỹ thưa lại quan: “Bẩm lạy quan, tôi đã xem sách đạo và hiểu lẽ đạo, tôi đã biết đạo Ðức Chúa Trời là đạo thật cho nên tôi không thể bỏ được. Giả như có ai bảo quan lớn đập đầu Ðức Hoàng Ðế đã ban quyền cao chức trọng cho quan, ắt là quan lớn chẳng dám làm. Vậy tôi dám đạp ảnh Ðức Chúa Trời là Chúa tôi thờ làm sao được? Tôi chẳng tiếc sự sống hèn sống tạm ở đời này, vì thế nào tôi cũng phải chết. Nếu chẳng chết trước thì cũng chết sau. Còn về của cải chức quyền thì xin quan lớn biết rằng chẳng có chức quyền và của cải nào sánh bằng phúc trọng tôi sẽ được chết vì đạo. Tôi vốn thương vợ con tôi lắm, nhưng tôi sẵn lòng lìa bỏ họ vì tôi biết rằng Ðức Chúa Trời sẽ coi sóc chúng nó, và ngày sau sẽ cho tôi được gặp họ trên Thiên Ðàng. Quan lớn dạy rằng có nhiều người bỏ đạo. Vậy những thằng lính vì sợ giặc bỏ chạy cũng bỏ thầy mình thì có ra gì? Tại sao quan lớn lại dạy tôi bắt chước chúng nó?”

Các quan thấy khuyên nhủ ông bỏ đạo cũng vô ích, nên làm án xin vua xử trảm Lý Mỹ và vua đã y án

Còn cha Năm thì khi đến Nam Ðịnh phải giam vào ngục thất ngay. Hôm sau các quan điệu ngài ra tra khảo bắt bỏ đạo. Cha Năm khẳng khái trả lời quan: “Bẩm lạy quan lớn, tôi là đạo trưởng mà tôi dám bỏ đạo hay đạp ảnh tượng Chúa tôi làm sao được? Tôi vốn khuyên dạy người ta phải giữ đạo vững vàng và thà chết chẳng thà bỏ đạo, thì tôi phải giữ lời tôi khuyên dạy kẻ khác. Nếu chính kẻ làm đạo trưởng chẳng chịu chết vì đạo, thì còn ai chịu chết vì đạo nữa?”

– “Nếu ông cứ nói giọng này thì ông phải chết chẳng có lẽ nào sống được. Ta thấy ông là người lương thiện hẳn hoi nên ta muốn cho ông được sống. Ta khuyên ông nên vâng lời Ðức Hoàng Ðế mà bỏ đạo”.

– “Bẩm lạy quan lớn, tôi đã bằng này tuổi đầu thì tôi đâu còn sợ chết, vì dù quan lớn có tha chẳng giết tôi, chẳng bao lâu tôi cũng chết vì bệnh. Nhưng nếu quan lớn giết tôi vì đạo tôi lại được nhiều ơn ích hơn là tôi chết vì bệnh. Vì nếu tôi chết vì đạo, tôi sẽ được chết vì Chúa tôi, đấng đã chịu chết cho tôi và tôi chóng được phần phúc Người đã hứa ban cho những kẻ giữ lòng trung cùng Người cho đến sau hết”.

Nhờ cha mà ông trùm Ðích và ông Lý Mỹ thêm can đảm chịu chết vì Chúa cùng một lượt với cha và con rể của ông.

Sau nhiều ngày trong tù, các quan thấy cha Năm không thay dạ đổi lòng, và biết không thể nào khuyên cha bỏ đạo, thì làm án xin xử tử cha. Án của cha như sau: “Tên Mai Ngũ là đạo trưởng đã theo tây dương đạo trưởng Giacôbê (Đức Cha Leager) từ thuở nhỏ đến lớn, đã tin đạo Gia Tô cùng in đạo ấy vào lòng đến nỗi không còn hiểu được sự phải trái. Lại bởi tên ấy cứ một mực chấp mê cứng cổ bất khẳng quá khóa, bất tuân quốc pháp, thì chúng tôi đã luận cho nó phải trảm quyết cùng bêu đầu ba ngày để cho ai nấy phải sợ và đừng bắt chước nó nữa”.

Trong hơn một tháng, cha Năm, ông Trùm Antôn Ðích và ông Lý Mỹ bị giam chung, cả ba đọc kinh tối sớm với nhau lớn tiếng mà chẳng ai nói chẳng ai cấm. Cũng vào thời ấy có hai ba cha thuộc địa phận Ðông cũng bị giam, các cha xưng tội với nhau. Ba thánh dọn mình kỹ lưỡng để ra pháp trường.

Rõ rệt Thầy chí thánh không bỏ rơi các tông đồ và các người tin theo các tông đồ trong những cơn bách hại: “Khi bị nộp vào tay họ, chúng con đừng lo phải nói thế nào và nói gì, lúc đó sẽ dạy chúng con những điều phải nói. Vì thực ra không phải chúng con nói, nhưng là Thần Linh của Chúa Cha nói trong các con” (Mat 10:19-20). Các quan nghe ba thánh nhất định không chối đạo và sẵn sàng chịu chết để tuyên xưng đức tin thì cho là dại dột. Các ông có biết đâu các ngài đã có mãnh lực, khôn ngoan từ Thiên Chúa. Nhờ vậy các ngài mới có thể tuyên xưng mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa, chính là tình yêu được diễn tả trong cuộc tử nạn trên thập giá để cứu chuộc trần gian quả là mầu nhiệm bao la vượt hẳn sự suy luận loài người. “Là vì cái điên rồ nơi Thiên Chúa còn khôn ngoan hơn cả sự khôn ngoan người đời, và cái yếu hèn nơi Thiên Chúa còn mạnh hơn cả sức lực phàm nhân” (I Cor 1:25).

5. Quyết định của vua quan tuyên bố xử trảm ba thánh cũng nói rõ rằng ba thánh phải chết vì đã tin theo đạo Gia Tô. Khi đến pháp trường, cha Năm quỳ xuống cái chiếu mà ông Lý Thi con ông trùm Ðích đã trải sẵn. Ba đấng cầu nguyện một lúc. Sau đó quan giám sát dịch loa, truyền mọi người yên lặng. Quan truyền lịch: “Các người hãy đến để xử những tên theo ông Giêsu. Nếu ai còn dám theo tôn giáo này, thì hãy biết rằng lệnh vua sẽ xử trảm như những tên can phạm này”. Sau đó một tên lính cầm thẻ đề tên cha Năm mà rao cho mọi người nghe: “Tên Mai Ngũ này là đạo trưởng, quê Ðông Biên, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, đã theo đạo Gia Tô từ thuở còn bé. Lại bất khẳng bỏ đạo thì đức Hoàng Ðế truyền cho nó phải trảm quyết và bêu đầu ba ngày cho người ta xem thấy mà sợ cùng đừng bắt chước nó”.

Sau khi đọc bản án từng người, quan truyền lệnh xử tử tù nhân. Ông Lý Mỹ xin quan xử cha Năm và ông trùm Ðích trước. Quan ưng thuận lời xin của ông. Quan truyền xử cha Năm trước rồi ông trùm Ðích sau. Lý hình chém một nhát thì đứt đầu ông.

Sau khi xử hai đấng, tên lý hình đòi ông Lý Mỹ năm quan tiền thì sẽ xử một nhát mát mẻ. Nhưng ông bảo rằng: “Năm quan tiền để làm phúc cho kẻ khó, chẳng có tiền cho chú mình đâu, muốn băm vằm thế nào thì mặc”. Lý hình bực tức, chém một nhát trượt không đúng, chỉ đứt một miếng thịt nơi cằm, ông Lý Mỹ ngã xuống. Mãi đến nhát thứ năm mới đứt đầu.

Các ngài đang thực hiện lời thánh Phaolô Tông Đồ đã viết: “Chúng tôi rao giảng Chúa Kitô tử nạn thập giá: Đức Kitô – trong mầu nhiệm Phục Sinh – đã minh chứng ngài là mãnh lực của Thiên Chúa, là khôn ngoan của Thiên Chúa” (I Cor 1: 23-24).

6. Ba thánh không chống đối, phản kháng, nhưng đã chấp nhận án chết vì đạo một cách vui vẻ. Ngày 12.08.1838, trên đường đi ra pháp trường Bảy Mẫu, ba thánh ca hát vui vẻ lắm. Dân chúng kéo đi xem rất đông. Hai ông quan giám sát cưỡi hai voi và hơn hai trăm quân lính kéo ra lối cửa Bắc đi trước, cha Năm, ông trùm Ðích, ông Lý Mỹ mang gông mang xiềng đi sau. Lại có ba tên lính mang thẻ đã đề tên ba đấng đi trước các ngài. Rồi đến cha Năm đi trước, ông trùm Ðích và ông Lý Mỹ theo sau. Thỉnh thoảng cha Năm bảo người ta: “Này đạo trưởng đây, đến mà xem”. Gặp những người quen, ngài chào từ giã vui vẻ: “Anh em nghỉ lại, tôi về quê trước, nhưng sau này chúng ta sẽ gặp nhau”.

Khi đi chịu chết ông Lý Mỹ vui mừng, nhanh chân nhẹ bước đi trước, vừa đi vừa chào hỏi mọi người. Miệng ông hát kinh tạ ơn Ðức Chúa Trời, tay ông gõ nhịp cùng rung xiềng xích tỏ ra rất vui vẻ. Kẻ ngoại đạo thấy ông mặt mũi vui tươi hớn hở thì khen ông là người anh hùng can trường. Trên đường đi ông gặp ông cả Thâu là anh em họ, con chú bác. Ông Thâu nói với ông Mỹ: “Anh Lý hãy vững vàng nhé”. Ông Mỹ thưa lại: “Anh hãy yên trí tôi chẳng có sợ đâu”.

Thật là một cuộc xưng đạo và tử đạo bi hùng. Đức Gioan Phaolô II đã nhận ra và đã chia sẻ: “Trước mặt chúng ta hôm nay, các vị Tử Đạo Việt Nam đóng vai trò những người đi gặt lúa cho Chúa, như đã ghi trong Thánh Vịnh: “Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan. Lúc ra đi phải khóc than, vì công vất vả gieo hạt. Nhưng khi trở về, lòng thênh thang phấn khởi, vì sẽ ôm nặng nhiều bông lúa” (Ca Vịnh 125, 126: 5-6). Lời huyền diệu trên đây nói lên ý nghĩa cuộc chứng nhân lịch sử nơi các vị Tử Đạo trong Giáo Hội Việt Nam. Trong vũng nước mắt của họ đã gieo xuống hạt giống ân sủng, để rồi trở thành vô số bông hoa đức Tin: “Hạt giống gieo xuống mà không mục đi thì chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu mục đi sẽ sinh nhiều bông lúa” (Gioan 12:24). Rồi lặp lại lời thánh Phaolô, Đức Giáo Hoàng đã khẳng định: «Chúng ta rao giảng Chúa Giêsu tử nạn thập giá” (I Cor 1:23); Và kết luận: “Máu các Tử Đạo là hạt giống sinh nhiều tín hữu”.

III. BA THÁNH TỬ ĐẠO ĐÃ SỐNG VÀ ĐỐT SÁNG VĂN HÓA VIỆT NAM

A. Trước nhất chúng ta hãy nêu ra một vài nhận định tổng quát về văn hóa việt nam và về cách ứng xử chung của các vị tử đạo.

1. Văn hóa Việt Nam, cho đến thế kỷ XVI, bao gồm bốn tầng: Âu Lạc, Ấn Phật, Lão Trang và Khổng Mạnh. Hệ tư tưởng Âu Lạc với truyền thuyết gia đình Âu Lạc, đã đặc biệt truyền lại cho con cháu bốn điều: huynh đệ tương trợ, có đức kính nhường, có trí thuận hòa và có dũng giữ nước. Hệ tư tưởng Ấn Phật với cái nhìn hư vô về thế giới; với tứ diệu đế: khổ, dục, diệt, đạo, đã đưa cho người Việt Nam cách cư xử siêu thoát với thế tục, xả kỷ với mình, để từ bi với chúng sinh. Hệ tư tưởng Lão Trang trình bầy cái gốc Đạo là nguyên ủy của sự tạo hóa. Vạn vật đều bởi Đạo mà sinh ra. Vậy, sửa mình và trị nước cần phải noi theo Đạo, phải điềm tĩnh, phải vô vi, phải tự nhiên, không dùng vũ lực. Tính hiếu hòa, tính an nhiên của người Việt Nam phải chăng bắt nguồn từ Đạo giáo? Còn hệ tư tưởng Khổng Mạnh, thì cả nền luân lý xã hội của ta đều lấy sức từ đấy và qua đấy. Trong cách sống của người Việt Nam, ngũ luân: Cha con có tình thân (Phụ tử hữu Thân), Vua tôi có nghĩa (Quân thần hữu Nghĩa), Chồng vợ có sự phân biệt (Phu phụ hữu Biệt), người lớn người nhỏ (anh em) có thứ tự (Trưởng ấu hữu Tự), bằng hữu có lòng tin (Bằng hữu hữu Tín). [5]; Ngũ thường: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, vẫn được dùng làm nguyên tắc cư xử.

2. Nhưng các vua quan Việt Nam, bị ảnh hưởng Hán nho, muốn bảo vệ nhà vua, đã độc tôn Khổng giáo và rứt ba cái trong ngũ luân ra mà lập thành thuyết tam cương. Tam cương tức là ba giềng mối chính trong xã hội loài người. Tam Cương gồm có Quân thần (Vua và các quan), Phụ Tử (Cha và Con), Phu Phụ (Chồng và Vợ). Người ta thường giải thích rằng khi đề cao Tam Cương (cùng với Ngũ Thường), Nho giáo đã chủ trương người làm Vua, làm Cha và làm Chồng có quyền hành tuyệt đối với bầy tôi, con hay vợ. Thứ tự đã đặt ngược lại: thay vì Cha con làm đầu, thì Tam cương đã đổi Quân thần làm đầu. Thuyết tam cương thì rõ là vua áp chế tôi, cha áp chế con, chồng áp chế vợ, mà không còn cái tinh thần bình đẳng của ngũ luân nữa. Trong ngũ luân, thì “Dân vi quý, quân vi khinh” chứ không đề cao vai trò của vua quan. Ngược lại, theo tam cương thì vua khiến bầy tôi chết, không chết không trung (quân xử thần tử, thần bất tử bất trung).

3. Trên bình diện tổng quát, trong tất cả 117 thánh, không một vị thánh tử đạo nào đã làm chính trị, hiểu theo nghĩa lập phe đảng chống lại triều đình. Ngay cả linh mục Giuse Marchand Du, bị bắt ngày 08.09.1835, người đã bị tình nghi là theo giặc Lê Văn Khôi, cũng chỉ là bị cáo gian. Thực ra ngài đã bị Lê Văn Khôi bắt vào thành, cưỡng bức phải biên thơ cho cầu cứu. Nhưng ngài đã không làm. Rút cục, ngài bị xử bách tùng xẻo vì đã không bỏ đạo.

Chúng ta hãy nghe những cuộc tra hỏi về cha Marchand Du. Ngày 15.10, quân lính và tù binh về tới kinh đô trong tiếng reo hò chiến thắng. Các tù nhân bị nhốt trong cũi, xếp một hàng dài ở trại Võ Lâm. Ngày hôm sau các quan tòa tam pháp tra hỏi cha Du: – “Ngươi có phải là Phú Hoài Nhân (tên vua đặt cho Đức Cha Taberd) không?”

– “Không”.

– “Ông ấy bây giờ ở đâu?”

– “Tôi không biết”.

– “Ngươi có biết ông ấy không ”

– “Tôi biết lắm nhưng đã lâu không gặp”.

– “Ngươi ở trong nước được bao lâu?”

– “Năm năm”.

– “Ngươi ở những đâu?”

– “Trước hết tôi ở Lái Thiêu, sau này tôi ở nay đây mai đó trong nhà nhiều người mà nay họ chết cả rồi”.

– “Ngươi có giúp Khôi làm giặc không?”

– “Không, ông Khôi cho quân đi bắt tôi đem về Sài Gòn. Việc chiến tranh tôi không biết gì, chỉ làm một việc là cầu nguyện cùng Chúa và làm lễ”.

– “Có phải ngươi viết thơ xin quân Xiêm và giáo dân Ðồng Nai đến giúp ngụy nữa không? ”

– “Ông Khôi có bắt tôi viết thơ song tôi không chịu, và nói cho ông ta rằng đạo cấm làm chuyện chính trị. Tôi cũng nói thà chịu chết chứ không làm như thế được. Dù vậy ông Khôi còn đem mấy thơ đến bắt tôi ký tên vào nhưng tôi đã lấy mà đốt đi trước mặt ông Khôi”.

Ngày hôm sau nữa quan lại hỏi các tướng nghịch. Những người này sợ tội nên đã đổ lỗi hoàn toàn cho Khôi đã chết và cho cha Du. Họ bịa đặt ra là có Đức Cha xúi làm loạn để đưa An Hòa, là con của Ðông Cung (hoàng tử Cảnh) lên ngôi. Mấy tướng nghịch cũng đổ tội cho công chúa Kiên An là em của Minh Mệnh xúi dục khởi ngụy, và cho Thái Công Triều, trước theo giặc nhưng đã phản Khôi về hàng triều đình.

Ngày 17.10, quan cho đòi cha Du đến công đường có bày sẵn các hình cụ và bắt nhận lời như bọn tướng nghịch đã khai. Cha Du cực lực chối bỏ. Cha bị tra tấn thật dã man: hai đứa kềm hai bên, một đứa khác vén quần lên cao để lộ hai bắp vế, một tên khác lấy kìm nung đỏ kẹp vào đùi bên trái. Mọi người nghe tiếng kêu xèo xèo và mùi khét phải quay mặt ra phía ngoài. Lý hình giữ nguyên kẹp cho đến khi nguội hẳn. Cha Du thét lên và ngất xỉu. Cách chừng nửa giờ sau quan lại hỏi nữa và bị kẹp đùi bên phải, thảm cảnh man rợ tái diễn làm cha Du ngã xuống đất lần thứ hai. Cha vẫn một mực không chịu nhận tội làm giặc mà các quan ép buộc. Quan nói: “Thôi, tên này lớn gan lắm, để thủng thẳng bữa khác sẽ hay. Hãy đem về cũi giam lại”.

Cha còn bị tra hỏi nhiều lần khác song không bị kìm kẹp. Không ép buộc được cha Du nhận tội, các quan bắt cha phải bỏ đạo. Quan nói: “Ngươi chối hoài là không làm gì theo giặc thì thôi, nhưng ngươi không thể chối đã đến đây giảng đạo mặc dù ngươi biết có lệnh vua cấm. Tội này cũng đáng hình khổ nặng lắm. Nhưng nếu ngươi đành lòng bỏ đạo bước qua thập giá thì ta tha cho mọi hình phạt”.

– “Quan lớn rộng lượng như thế thì xin cám ơn, nhưng xuất giáo thì không bao giờ. Tôi thà chịu mọi hình phạt quái gở chứ chẳng thà chối Chúa như vậy”.

Các quan mặc sức chế nhạo và vu khống cho đạo như là làm thuốc mê, gian dâm với đàn bà…. Cha cực lực chối cãi: “Cái việc ấy chỉ là do những người ghét đạo bày đặt ra. Nếu đạo có như vậy thì còn ai dám theo?”

Các quan làm tờ trình như sau: “Năm Minh Mệnh thứ 15, tháng 9, ngày 13, chúng tôi, các quan tòa tam pháp theo lệnh hoàng thượng như sau. Tháng 5, năm vừa qua, chúng tôi xét xử vụ khởi loạn của Khôi ở thành Phiên An, trong số đồng phạm có linh mục Âu Châu tên là Du, cũng gọi là Marchand, đã theo tầu Trung Hoa đến nước năm Minh Mệnh thứ 12 tại cửa Cần Giờ, và trốn tránh tại Vĩnh Long và Biên Hòa để lén lút giảng đạo Gia Tô. Từ đó theo Khôi khởi loạn, liên lạc với kẻ thù của chúng ta là nước Xiêm và tập họp người Công Giáo trong thành…, đã bị bắt và dẫn giải về kinh đô giao cho chúng tôi xét xử. Sau đó chúng tôi đã mở cuộc thẩm vấn và thấy các câu trả lời của tội nhân vi phạm luật lệ quốc gia một cách trầm trọng. Chính tội nhân đã nhận tội lỗi. Vì thế tên đạo trưởng Âu Châu Du hay Marchand có hai tội không những không chịu đạp ảnh mà thực sự có dính líu đến nghịch tặc. Chúng tôi luận phải xử bá đao và phải bêu đầu. Sau khi nhận được lệnh vua, chúng tôi sai hai quan Lang Trung và Chủ cùng với 40 lính thuộc trấn phủ dẫn tù nhân Âu Châu Marchand đến nơi gọi là Trương Ðông, làng Dương Xuân, huyện Hương Toà để hành quyết và chặt đầu bêu như đã chỉ thị” [6].

4. Ngược lại, tất cả các thánh tử đạo đều rất tôn trọng vua quan và hết lòng vì quê hương. Thánh Lý Mỹ khi bị thẩm vấn về tội chứa chấp đạo trưởng là cha Năm trong làng, mà không báo quan, đã thành thật nhận lỗi và trả lời trong tinh thần rất tôn trọng quan Trịnh Quang Khanh rằng: “Bẩm lậy quan lớn, nếu quan lớn thương thì chúng tôi nhờ hồng phúc quan lớn, bằng quan lớn bắt tội thì chúng tôi cam chịu”.

Cha Thánh Phaolô Phạm Khắc Khoan, bị bắt ngày 24.8.1837, xử trảm ngày 28.4.1840, còn nói rõ hơn về lòng tôn trọng vua quan và phép nước. Ngày 28.4.1840, trên đường ra pháp trường, tới thành phố gặp đám đông, cha Khoan dừng lại nói với đám đông: “Anh chị em đừng thương tiếc cho số phận của chúng tôi, chúng tôi vô tội, chúng tôi không làm gì chống lại vua hay luật lệ quốc gia. Lỗi duy nhất mà họ trách là chúng tôi là người Kitô. Chúng tôi chết vì không chịu từ bỏ đạo Chúa Giêsu là đạo chân thật. Với quý ông quý bà theo chúng tôi và nhìn máu chúng tôi tuôn đổ hãy suy nghĩ đến sự cứu rỗi, hãy trở về nhà bằng an”. Hai quan lớn cỡi hai con voi, hai quan nhỏ cỡi ngựa và đông binh sĩ làm thành vòng tròn để ba vị tử đạo ở giữa rồi tiến về nơi xử là Lò Gạch tại Ninh Bình. Tới nơi, cha Khoan lại lên tiếng nói: “Chúng ta hãy thờ lạy tôn kính yêu mến Thiên Chúa, Chủ Tể trời đất, vì yêu Người mà chúng tôi phải chết. Chúng tôi cầu chúc đức vua được giầu sang phú quý cai trị muôn năm và chớ gì ngài ngưng cuộc bách hại đạo trời là đạo duy nhất mang lại hạnh phúc [7].”

Cha Tôma Khuông, bị bắt ngày 29.12.1859 và bị chém ngày 30.1.1860 tại Hưng Yên, đã trả lời một câu hỏi của quan và nêu rõ nhiệm vụ trung thành với vua quan rằng: “Ðạo chúng tôi truyền buộc các tín hữu phải giữ trọn lề luật trong đạo đồng thời phải trung thành với vua, hiếu thảo với cha mẹ và phải cầu nguyện luôn cùng Thiên Chúa cho quốc gia được hưng thịnh. Nếu người nào lỗi phạm thì mắc tội trọng. Chắc chắn không người tín hữu nào dám xin người Châu Âu đến gây việc chiến tranh [8]”.

B. Riêng về cha Năm, ông Trùm Ích và ông Lý Mỹ, ba vị có cuộc sống khôn ngoan, ngay thẳng, nhân nghĩa, trung tín, đáng làm gương cho mọi người Việt Nam về tư cách sống. Nếu tất cả mọi người Việt Nam đều khôn ngoan, ngay thẳng, nhân nghĩa và trung tín như các ngài, thì chẳng những chắc chắn thời các ngài đã chẳng loạn lạc như lịch sử đã kể lại; mà còn có thể là đã chẳng có lệnh cấm đạo nữa, đã chẳng có việc các vua quan đã giết hại đến 130.000 người, chỉ vì họ khác tôn giáo với mình. Tư cách sống ấy, nét văn hóa thực tế ấy đã nổi bật ở những nét nào? Các ngài đã đốt sáng văn hóa sống cụ thể ở những điểm nào?

1. Gương lãnh đạo trung tín như người cha tinh thần của cha Năm, giáo sĩ đạo trưởng. Hai tài liệu Công Đồng Vatican II đã nói rõ về vai trò của linh mục đạo trưởng. Trong Sắc lệnh về Chức linh mục Công đồng nói như sau: “Bởi vậy, trong chức vụ và đời sống của mình, các linh mục phải nhằm mục đích tìm kiếm vinh danh Thiên Chúa Cha trong Chúa Kitô… Các ngài không thể là thừa tác viên của Chúa Kitô nếu không là chứng nhân và là người ban phát một đời sống khác đời sống thế tục”. Hiến chế Ánh sáng muôn dân, đặt tác vụ linh mục tư tế trong bối cảnh chung của sứ vụ của Giáo Hội được coi như là Dân Thiên Chúa, là dân đã nhận được ơn tham dự vào ba sứ vụ của Chúa Kitô: ngôn sứ, tư tế và mục tử. Hiến chế nói như sau: “Nhờ bí tích truyền chức thánh, linh mục được thánh hiến theo hình ảnh Chúa Kitô, thầy cả thượng phẩm vĩnh viễn (x.Dt 5, 1-10); 7, 24; 9, 11-28), để rao giảng Phúc Âm, chăn dắt tín hữu và cử hành việc phụng tự Thiên Chúa với tư cách tư tế đích thực của Tân Ước”. Cha Năm đã có thực hiện được những trách nhiệm của một linh mục, đồng thời giữ gìn được những nét đặc trung của Văn hóa Việt Nam không?

Cha Năm nhân ái với con người, trung tín với Thiên Chúa. Cha hiền hòa vui vẻ, chăm lo kinh hạt, ước ao được phúc tử đạo, chứng nhân cho đời sống siêu nhiên. Cha thường kể truyện giặc giã đời Tây Sơn cho người ta nghe, nhiều người quý mến ngài. Ngoài tính vui vẻ, Cha Năm còn có tính khiêm nhường, đạo đức, cứ giờ cứ mực mà ra đọc kinh. Khi ẩn ở nhà ông trùm Tôn, ngài đọc kinh cả ngày. Có lần người ta đến hầu thì phải đợi lâu mới vào được, vì ngài còn đang bận đọc kinh lần hạt. Ngài có đức vâng lời, không bao giờ phàn nàn bề trên điều gì. Ngài cũng có lòng thương người nghèo khó, khi ăn cơm ngài thường để dành cho kẻ khó một ít. Lúc chẳng có gì để cho kẻ khó, thì ngài cho thuốc viên. Ðối với vấn đề tử đạo, cha Năm rất ao ước. Lần kia, cha được tin ông kia bỏ đạo thì buồn bã phàn nàn rằng: “Ôi ông ấy dại dột dường nào! Ông ấy được dịp tốt đến mà không chịu nhờ. Ðức Chúa Trời đã đem ông ấy vào đàng ngay nẻo chính để lên Thiên Ðàng, mà ông ấy không chịu đi. Giả như Chúa thương ban phúc ấy cho tôi, thì tôi chẳng dám từ chối. Giả như Chúa có liệu dịp tốt lành cho tôi như thế, thì tôi chẳng dám bỏ qua”.

Cha Năm can đảm vui vẻ đón nhận tử đạo, đã đặc biệt muốn chăn dắt tín hữu, rao giảng Phúc Âm và tìm kiếm vinh danh Thiên Chúa. Khi đến Nam Ðịnh thì cha Năm phải giam vào ngục thất ngay. Hôm sau các quan điệu ngài ra tra khảo bắt bỏ đạo. Cha Năm khẳng khái trả lời quan: “Bẩm lạy quan lớn, tôi là đạo trưởng mà tôi dám bỏ đạo hay đạp ảnh tượng Chúa tôi làm sao được? Tôi vốn khuyên dạy người ta phải giữ đạo vững vàng và thà chết chẳng thà bỏ đạo, thì tôi phải giữ lời tôi khuyên dạy kẻ khác. Nếu chính kẻ làm đạo trưởng chẳng chịu chết vì đạo, thì còn ai chịu chết vì đạo nữa?”

– “Nếu ông cứ nói giọng này thì ông phải chết chẳng có lẽ nào sống được. Ta thấy ông là người lương thiện hẳn hoi nên ta muốn cho ông được sống. Ta khuyên ông nên vâng lời Ðức Hoàng Ðế mà bỏ đạo”.

– “Bẩm lạy quan lớn, tôi đã bằng này tuổi đầu thì tôi đâu còn sợ chết, vì dù quan lớn có tha chẳng giết tôi, chẳng bao lâu tôi cũng chết vì bệnh. Nhưng nếu quan lớn giết tôi vì đạo tôi lại được nhiều ơn ích hơn là tôi chết vì bệnh. Vì nếu tôi chết vì đạo, tôi sẽ được chết vì Chúa tôi, đấng đã chịu chết cho tôi và tôi chóng được phần phúc Người đã hứa ban cho những kẻ giữ lòng trung cùng Người cho đến sau hết”.

Cha Năm được các quan thương mến. Các quan thấy cha Năm ăn nói cả quyết cứng cát và chỉ ao ước được chết vì đạo, thì biết rằng chẳng có thể nào dụ dỗ ngài bỏ đạo được, và dù có tra tấn ngài mặc lòng thì cũng vô ích mà thôi, cho nên chẳng những các quan chẳng tra khảo mà cũng chẳng đánh đập ngài. Hơn nữa các quan thấy ngài đã có tuổi, ăn nói lễ phép nên cũng thương không bắt ngài mang gông cùm ban ngày mà chỉ bắt mang ban đêm thôi. Các quan cũng làm ngơ để cho cha đi lại trong tù dễ dàng.

Thực ra, gương công chính của các linh mục Công Giáo, làm nhiều quan chức đã không đồng ý bắt đạo, và đã tìm nhiều cách cứu giúp, kết nghĩa, trọng đãi, tránh xử. Cha Lê Bảo Tịnh đã được quan tổng đốc Tân cho người báo tin trước ngày các quan định vây bắt Vĩnh Trị. Cha Gioan Đạt, được viên cai ngục xin kết nghĩa huynh đệ: “Tôi thấy cụ khôn ngoan, đạo đức, thì muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cổ quan tài để biểu lộ lòng tôi quí cụ.” Cha Trần An Dũng Lạc được quan huyện Bình Lục hậu đãi. Ông cho dọn cơm bằng mâm bát của mình, để ông ngồi ăn một mâm, cha Lạc một mâm, rồi nói: “Ông ngồi một mình một mâm thì cũng là quan. Ông là quan bên đạo, tôi quan bên đời”, và cho lệnh cởi trói với lời thanh minh rằng: “Tôi không có ý bắt ông, nhưng kẻ tố giác cứ lên cáo mãi, nên tôi phải đi”. Cha Đạt được dân chúng kính phục: Ngày 12.9 Âm Lịch, hội đồng cố vấn họp lại và ấn định ngày 20 sẽ thi hành án trảm quyết cha Đạt, đồng thời ra lệnh cho quan cũng như dân thuộc 12 huyện trong tỉnh Thanh Hoá kê khai những người Công Giáo, để bắt họ đến dự cuộc hành quyết của ngài. Từ ngày đó lương dân cũng như giáo dân Công Giáo bùi ngùi đến viếng thăm ngài. Họ nói với nhau: “Linh mục này hãy còn thanh xuân, gương mặt hiền hòa trấn tĩnh, can đảm trổi hơn cả những quan tướng thời danh trong triều, thật xứng đáng là thủ lãnh dân Công Giáo”. Đặc biệt chuyện linh mục Vũ Bá Loan, niên trưởng 84 tuổi, được mọi người kính trọng gọi bằng “cụ”, ngài không bị đòn đánh, và trong ngày xử, mười lý hình bỏ đạo chạy trốn, đến người thứ mười một, đã lịch sự xin phép: “Việc vua truyền cháu phải làm, xin cụ xá lỗi cho. Cháu sẽ cố giúp cụ chết êm ái. Khi về trời cụ nhớ đến cháu nhé”.

Kết luận, qua những hành xử của mình, cha Năm đã sống và thực hiện một cách trọn hảo văn hóa ngũ luân, ngũ thường. Đồng thời ngài đã làm tròn nhiệm vụ của một linh mục, giáo sĩ đạo trưởng. Ngài đáng làm gương sáng cho mọi người dân Việt biết hòa nhã tôn kính, thương yêu nhau; và cho các linh mục việt nam hôm nay biết sống khó nghèo, khiết tịnh và vâng lời để làm chứng cho Đức Tin, rao giảng Tin Mừng và tìm kiếm Vinh Danh Chúa.

2. Gương đức độ hiền lành dậy con của Ông Trùm Ích, Gia Trưởng. Đọc lại tiểu sử thánh Trùm Ích, nét nổi nhất hiện ra trong tác phong của ngài là sự tổng hợp hoàn hảo giữa văn hóa ngũ luân, ngũ thường việt nam và đời sống nhân đức Công Giáo. Ngài đã thực hiện cả năm mối nhân luân: có tình thân với con cháu, có nghĩa với vua quan, có đầy đủ trách nhiệm bên ngoài để vợ lo bên trong, có kính nhường với anh em, có chữ tín trong giao thiệp, bạn bè; cũng như năm đức tính thường ngày: Nhân, để yêu thương đối với vạn vật; Nghĩa, để cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải; Lễ, để tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người; Trí, để thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai và Tín, để giữ đúng lời hứa. Đồng thời ngài cũng thực hiện tốt đẹp 8 nhân đức nền tảng Kitô Giáo trong hai chiều kích “mến Chúa yêu người”. Ba nhân đức đối thần: Tin, Cậy, Mến. Và Năm nhân đức đối nhân: bác ái, khôn ngoan, công chính, can đảm và tiết độ.

Ông trùm Ích nêu gương sáng về ngũ luân, ngũ thường. Ông trùm Ðích, chính tên là Nguyễn Khiêm, sinh năm 1769 tại làng Chi Long xứ Nam Xang, tỉnh Hà Nội. Cha mẹ là người ngoan đạo, thấy họ Chi Long xa nhà thờ thì bỏ họ ấy mà đem con cái cửa nhà đến ở làng Kẻ Vĩnh, nơi có nhà chung, có các linh mục ở gần để tiện bề đi nhà thờ. Ông bà đến làng Kẻ Vĩnh và xin nhập làng Kẻ Vĩnh. Ông Ðích từ đó sinh sống tại làng này, ông lập gia đình với người làng Kẻ Vĩnh và sinh hạ được mười người con. Ông Ðích là người hiền lành thật thà từ nhỏ, chẳng hề cãi mắng buồn giận ai bao giờ, ông không chửi mắng con cái hay nói năng đến vợ bao giờ. Ông cũng chẳng chơi bời, cờ bạc rượu chè mà chỉ chuyên chú làm ăn và giữ đạo. Trong gia đình, sáng tối cả gia đình đều đọc kinh chung với nhau không bao giờ bỏ. Có người đã đến trọ nhà ông, sau này kể lại là chẳng bao giờ trốn được đọc kinh với ông ấy. Về vấn đề đi dự lễ, ông bắt chẳng những con cháu và người nhà phải đi lễ Chúa Nhật mà cả lễ ngày thường, chỉ để lại một hai người ở nhà coi nhà mà thôi. Chính ông làm gương cho vợ con, ông đi lễ hằng ngày và cầu nguyện sốt sắng. Ông ăn chay suốt mùa chay. Hằng ngày ông lần hạt rất nhiều lần. Ông trùm Ðích có lòng kính mến các đấng các bậc tu trì. Ông hay gửi quà biếu xén nhà chung và làm phúc quần áo cho các chú các thầy. Ông chẳng tiếc công tiếc của với các vị tu trì.

Ông trùm Ích đặc biệt vượt trổi về thành quả giữ tình thân với con cái và giáo dục chúng. Ông dạy bảo và giáo dục con cái cẩn thận chẳng nuông chiều con cái. Dù con cái đã lớn khôn hay đã có vợ con, ông vẫn tiếp tục coi sóc răn bảo. Có đứa con nào cứng cổ cứng đầu thì ông đánh đòn răn bảo, chẳng nuông chiều một đứa nào. Các con cái ông nhờ được ông giáo dục mà sau này nên người không một ai hư hỏng. Các con đều có lòng đạo đức như ông. Một gia đình mà có bốn người được phúc tử vì đạo. Con trai ông là ông Lý Thi sau này cũng tử vì đạo dưới thời Tự Ðức năm thứ 11, tại Nam Ðịnh. Một người con khác tên là ông Phó Nhâm chẳng chịu bỏ đạo bị đày lên Cao Bằng và chết rũ tù ở trên đó. Con rể ông là ông Lý Mỹ cũng chịu tử vì đạo với ông. Trước mặt kẻ ngoại thực là một thảm cảnh cho gia đình ông. Nhưng trước mặt kẻ có đạo, thực là một phúc Chúa ban cho ông và gia đình.

Khi con cái đã khôn lớn, ông lo liệu gia đình. Ông không đặt vấn đề giàu sang phú quý mà là lòng đạo. Người nào muốn cưới hỏi con cái ông phải đạo đức. Dù giàu có mà khô khan nguội lạnh ông cũng không gả con cho. Trái lại dù nghèo mà đạo đức thì ông cũng bằng lòng ngay. Chẳng những ông lo dạy con cái đạo nghĩa, mà còn lo cho con cái học hành. Trong nhà ông, ông nuôi thầy đồ để dạy chữ nghĩa cho con cái. Nhà ông cũng không phải nghèo hèn trong làng. Ông rất căn cơ mực thước chăm chỉ làm ăn, nên nhà không bao giờ thiếu thốn. Trong gia đình có con ăn đầy tớ, và ông đối xử rất công bằng. Ông chẳng mang tiếng xấu gì trong làng và cũng chẳng ai trách móc ông được điều gì. Dù ông mới gia nhập làng Kẻ Vĩnh, nhưng uy tín của ông rất lớn. Ông được xếp vào hàng huynh thủ trong làng. Con rể ông làm Lý Trưởng, sau này con trai ông là ông Lý Thi cũng làm Lý Trưởng.

Trước ông trùm Ðích nghĩ đến những hình khổ mình sẽ phải chịu vì đạo thì sợ hãi lắm, dường như muốn sờn lòng. Tuy nhiên cha Năm, ông Lý Mỹ, ông Lý Thi và các con cái yên ủi và khuyên bảo ông. Ông được những lời khuyên bảo và an ủi, thì mạnh dạn thưa với quan rằng: “Bẩm lạy quan lớn, về con cái thì mặc con cái, tôi đã lo liệu cho chúng nó rồi. Còn về Ðức Chúa Trời, đã có lẽ tự nhiên buộc tôi phải thờ lạy Người, có lẽ nào tôi lại dám bỏ Người. Quan lớn có tha thì tha, bằng chẳng tha thì chớ đừng ép tôi nữa”.

3. Gương khôn ngoan, hiếu trung, nhân nghĩa lễ của Ông Micae Mỹ, Lý Trưởng. Ông Micae Lý Mỹ sinh năm 1804 tại trại Ðại Ðăng, giáp tỉnh Vạn Sang nay là tỉnh Ninh Bình. Về sau gia đình ông Lý Mỹ đến lập nghiệp tại làng Kẻ Vĩnh. Ở đấy ông kết hôn với cô Miện con gái ông trùm Ðích. Hai ông bà sinh được tám người con. Từ bé, ông Mỹ đã có nét nghiêm nghị, khác hẳn với những trẻ đồng tuổi. Ông chẳng những siêng năng đi lễ đi nhà thờ, sớm tối đọc kinh, mà đôi khi người ta còn thấy ông đọc kinh lần hạt riêng một mình ngoài xó vườn.

Sau khi lập gia đình, ông càng ngoan đạo hơn nữa. Bà Lý Mỹ nói rằng: “Ông ấy rất siêng năng đọc kinh tối sớm, dù lúc trong nhà làm công việc cũng chẳng bỏ đọc kinh hay đọc kinh vắn tắt bao giờ. Tối nào vợ con hay đầy tớ bận bịu, hoặc phải làm việc cần nào khác ở nhà, ông bắt đọc kinh chung với nhau trước và đọc sách cho chúng tôi nghe nữa. Ông ấy xưng tội chịu lễ một năm bốn năm lần. Khi toan đi xưng tội, ông xét mình trước hai ngày cùng biên tội mình vào giấy kẻo quên”.

Mọi người trong làng đều coi ông như gương lành để bắt chước. Có lần trai tráng trong làng Kẻ Vĩnh đến hầu cụ Phê, thì cụ bảo chúng nó rằng: “Chúng con hãy soi gương bắt chước ông đồ Diệu (ông Lý Mỹ), vì ông ấy thật là người có nết na hẳn hoi và giữ đạo sốt sắng”. Ông Mỹ thương kẻ khó, và bố thí cho họ. Có năm mất mùa, thiên hạ đói khổ, ông truyền nấu cháo cho kẻ khó ăn, vì ông sợ cho gạo, họ sẽ ăn xong và đau bụng mà chết.

Đặc biệt, trong chức vụ lý trưởng, ông lý Mỹ nêu gương sáng ngũ thường: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín; và nhất là chữ trí, khôn ngoan. Tuy còn trẻ, nhưng tư cách và uy tín của ông đáng kính phục. Ông là người sắc sảo giỏi giang, ông ăn ở chính trực và ăn nói lý sự. Có lần trong làng khuyết một chân cai tổng, lý trưởng trong làng đến nhà ông xin ông ra làm việc chung, nhưng ông không chịu. Về sau ông lại được bầu làm lý trưởng, ông cũng không nhận. Ðức cha Dụ phải khuyên bảo ông nhận làm lý trưởng để bênh đỡ nhà chung và giữ dân trong thời buổi cấm đạo ông mới vâng lời ra làm lý trưởng.

Trong thời gian làm lý trưởng, ông điều hành rất giỏi. Ðức cha Liêu sau này làm chứng rằng nhà chung và dân làng nhờ ông rất nhiều. Ông chẳng ăn bớt của dân chút nào mà có khi còn bỏ của nhà ra làm việc chung. Người ta kiện cáo nhau hay con cái kiện tụng chia của đều đến với ông Lý Mỹ, vì ông xử sự rất công bằng. Khi đã lo liệu việc gì cho ai mà họ đem lễ vật đến tặng dù ít dù nhiều ông cũng không nhận. Người ta có biếu ông một hai trăm cau ông mới nhận, mà chẳng tạ gì cũng chẳng sao.

Khi phải sửa phạt dân, ông đánh đòn sửa phạt thẳng thắn chẳng thiên vị một ai. Cho nên dù ở trong làng hay ở ngoài đồng chẳng ai lấy trộm của ai. Cả hàng tổng đều khen ngợi làng Kẻ Vĩnh nghiêm hơn các làng khác.

Những người đàn bà hay la lối chửi rủa, ông cũng đánh. Trong làng Kẻ Vĩnh có người đàn bà hoang thai đã hai lần, đến lần thứ ba có người bàn với ông Lý Mỹ đuổi bà ta ra khỏi làng, nhưng ông Lý Mỹ không nghe lại nói rằng: “Phải để nó ở đây, hoặc sau này nó ăn năn sửa mình lại chăng. Nếu đuổi nó đi, nó sẽ đi với kẻ ngoại đạo mà mất linh hồn”.

Thấy cách xử sự của ông với người ngoại tình ai cũng khen ông có tính thương người, chỉ mong cho người ta sửa mình. Khác hẳn với cách phạt của các làng bên ngoài là gọt đầu bôi vôi và thả bè trôi sông cho chết. Khi cần phải sửa phạt ai, ông không phạt vì nóng giận hay gắt gỏng. Ông ấy vừa truyền đánh người ta vừa nói truyện vui vẻ như thường, coi như đó là phép tắc phải vậy.

Với bà Mỹ, ông lý Mỹ nêu gương về nghĩa tào khang; Với con cái ông nêu gương về chữ thân, chữ từ và giáo dục chúng. Vợ chồng con cái đầy tớ chẳng những đi lễ các ngày lễ cả, mà cả các ngày thường nữa. Trong mùa chay ông ăn chay một tuần hai ngày, thứ Tư và thứ Sáu. Vợ chồng hòa thuận thương yêu nhau. Ông ăn ở hiền lành với vợ con chẳng bao giờ nặng lời với vợ con. Vợ chồng ông chẳng cãi mắng nhau bao giờ. Trong suốt 18 năm trời vợ chồng ăn ở với nhau chỉ có một lần ông Lý Mỹ đánh bà ấy ba cái vì bà ấy lười không chịu đọc kinh. Bà Lý Mỹ nói rằng vợ chồng chỉ mất lòng nhau có một lần ấy mà thôi. Bà Lý Mỹ lại nói rằng: “Tôi chẳng thấy ông ấy uống rượu, đánh bạc hay là chửi bao giờ, chỉ chuyên một việc làm ăn, săn sóc cửa nhà và giữ đạo”.

Ở trong tù, Quan hỏi: “Sao mày chẳng thương vợ con? Con cái còn bé mọn yếu đuối, sao mày nỡ quên tình cha mà không thương con thế vậy? Dù chúng tao chỉ nghĩ tới hay trông thấy chúng nó thì cũng xót còn mày mê man làm sao mà chẳng quá khóa đi?” Ông Lý Mỹ thưa lại quan: “Tôi tính sao hả? Tôi có mê đâu! Vợ con là của Ðức Chúa Trời phó cho tôi, tôi coi sóc dạy dỗ khi có thể làm được. Mà bây giờ Ðức Chúa Trời định cho tôi ở trong tay quan lớn, thì tôi cũng phải vâng ý Người, cũng như vợ con tôi phải vâng ý tôi. Sao ông lại bảo lăng nhăng xàng xiên rằng tôi phải bỏ đạo, bỏ Ðức Chúa Trời là phải lẽ sao?”

Bà Lý Mỹ có lần bế con mới sinh được mấy tháng ra tỉnh thăm chồng cũng yên ủi khuyên bảo chồng chịu khó cho trọn, đừng lo cho vợ con làm chi. Vì nhờ ơn Chúa giúp sức thì mình cũng có thể ra sức dạy dỗ chúng nó được. Con gái lớn ông tên là Mỹ, mới 12 tuổi, đi trộm mẹ ra tỉnh mất gần nửa ngày trời để thăm cha trong ngục. Nó phải qua 2,3 lần cửa lính canh rất ngặt. Ðến gặp ông, nó thưa ông rằng: “Xin cha hãy chịu khó chịu chết vì đạo”. Ðứa con trai ông lên 9 tên là Tường, nhỏ quá không lên thăm bố được, nên nhắn những người lên tỉnh thăm cha thưa rằng: “Xin cha đừng có quá khóa, cứ vững lòng xưng đạo ra và chịu chết vì đạo, đừng lo đến chúng con làm chi”. Thật là một hồng phúc cho ông. Mọi người thân yêu đều có lòng tin mạnh mẽ, khuyến khích ông can đảm chết vì Chúa.

Với ông trùm Đích, bố vợ, ông Lý Mỹ rất hiếu thảo. Thấy cha vợ là ông trùm Ðích đã già yếu, lại có tính sợ đòn, phàn nàn không biết có bền vững chịu các hình khổ không, thì ông Lý Mỹ khuyên cha vợ: “Cha đã già rồi, lại yếu đuối, chẳng trông sống được bao lâu nữa, nếu cha chẳng chết vì đạo khi này, thì chẳng bao lâu nữa cha cũng chết bệnh. Nhưng nếu cha chết vì đạo, thì sẽ làm sáng danh đạo và sẽ được phúc thanh nhàn vui vẻ trên Thiên Ðàng đời đời. Nếu cha xuất giáo mà về nhà phải chết bệnh thì sẽ mang tiếng là kẻ bỏ đạo cùng liều mình mất linh hồn. Giả như có ai mến tiếc sự sống đời này, thì phải là con, vì con còn trẻ tuổi, khỏe mạnh. Nhưng con chẳng tiếc sự sống, lại vui lòng bỏ sự sống cho danh Ðức Chúa Trời được cả sáng. Con cái cha đã lớn rồi. Cha có sống ở với chúng nó thì cũng chẳng giúp chúng nó được việc gì. Nếu cha chết vì đạo thì sẽ làm gương sáng cho chúng nó và làm cho chúng nó được trọng trước mặt người ta. Vợ con còn trẻ tuổi, bốn đứa con của con còn bé dại chưa làm được gì mà ăn, nhưng con tin thật Ðức Chúa Trời đã sinh chúng nó ra, thì người cũng sẽ nuôi chúng nó nữa. Vả lại khi con đã được lên Thiên Ðàng thì con sẽ cầu nguyện cho chúng nó. Khi cha nghĩ đến những đòn vọt cha phải chịu chỉ lo sợ chẳng biết có chịu được chăng, song cha đừng lo, đừng sợ làm chi. Vì con sẽ chịu đỡ cho cha. Vậy xin cha hãy cứ vững lòng xưng đạo ra cùng làm chứng cho thiên hạ biết ta là kẻ tin cùng giữ đạo thật lòng và ta sẵn lòng chịu chết vì Ðức Chúa Giêsu đã chịu chết cho chúng ta”.

Ông Lý Mỹ nói thế nào thì giữ như vậy. Hễ lần nào quan toan đánh ông Ðích thì ông lại xin quan: “Lạy quan lớn, cha tôi già nua tuổi tác cùng yếu đuối, xin quan lớn tha cho cha tôi, tôi xin chịu đòn thay cho cha tôi”. Quan thấy ông có lòng hiếu thảo, thì ưng tha cho ông trùm Ðích và đánh ông Lý Mỹ. Có lần ông Mỹ chịu đòn thay cho ông trùm Ðích về, thì nói với ông trùm Ðích rằng: “Lạ thay bởi ơn Ðức Chúa Trời thương, khi quan đánh, thì con không thấy đau là mấy”.

Ông Lý Mỹ được quan quân và dân chúng kiêng nể. Bị bắt, về tới đồn Lục Bộ, quan hỏi ông có bỏ đạo không thì cho về, nhưng ông nhất định không chịu bỏ đạo. Ở Lục Bộ, một người huynh thứ trong làng Kẻ Vĩnh đến bàn với ông về việc hối lộ để chuộc ông ra, nhưng ông Lý Mỹ không chịu lại nói rằng: “Xin cám ơn dân có lòng, dân có lòng thì trả ơn dân, nhưng đừng chạy chuộc tội, xin để tiền ấy mà giúp vợ con tôi và làm bữa mừng khi đem xác tôi về”.

Các quan làm hết cách để dụ dỗ ông. Có khi dụ dỗ cùng lúc với cha Năm và ông trùm Ðích, có khi thì dụ dỗ riêng một mình ông. Có lần quan bảo ông: “Mày là thằng giỏi giang lại trẻ tuổi, lý sự và coi sóc dân làng giỏi, ai cũng được nhờ, sao mày dại mà chẳng chịu quá khóa đi?” Ông Mỹ thưa lại: “Sao tôi lại dại? Khi chưa có tôi thì đã có dân, thế thì ai coi sóc dân lúc bấy giờ? Nhưng mà linh hồn tôi thì tôi phải coi giữ, cho nên tôi chẳng bỏ linh hồn tôi mà nghe lời quan đâu”.

Có lần đến trước quan án, mà quan cứ giục ông phải bỏ đạo, nên ông nói chọc quan lớn: “Giả như giặc giã đến đây mà truyền cho chúng tôi đập đầu quan lớn để chúng tôi được sống, thì chúng tôi dám làm, nhưng Chúa chúng tôi thờ thì chúng tôi chẳng dám làm đâu”. Quan nghe vậy tức giận quá, liền cầm cái quạt ném vào mặt ông trúng vào con mắt ông, ông đau đớn quá ngã xuống sân.

Có lần khác quan thương tình khuyên bảo ông: “Mày còn trai tráng, và giỏi giang. Mày đã làm lý trưởng, nếu biết điều mày cũng có thể trở nên giàu sang, và được phong lưu sống lâu. Mày hãy quá khóa đi, thì được về nhà ở với vợ con. Nhiều kẻ khác đã quá khóa rồi, sao mày chẳng bắt chước chúng nó quá khóa, khi về nhà thì mày muốn giữ đạo thế nào cũng được”. Ông Lý Mỹ thưa lại quan: “Bẩm lạy quan, tôi đã xem sách đạo và hiểu lẽ đạo, tôi đã biết đạo Ðức Chúa Trời là đạo thật cho nên tôi không thể bỏ được. Giả như có ai bảo quan lớn đập đầu Ðức Hoàng Ðế đã ban quyền cao chức trọng cho quan, ắt là quan lớn chẳng dám làm. Vậy tôi dám đạp ảnh Ðức Chúa Trời là Chúa tôi thờ làm sao được? Tôi chẳng tiếc sự sống hèn sống tạm ở đời này, vì thế nào tôi cũng phải chết. Nếu chẳng chết trước thì cũng chết sau. Còn về của cải chức quyền thì xin quan lớn biết rằng chẳng có chức quyền và của cải nào sánh bằng phúc trọng tôi sẽ được chết vì đạo. Tôi vốn thương vợ con tôi lắm, nhưng tôi sẵn lòng lìa bỏ họ vì tôi biết rằng Ðức Chúa Trời sẽ coi sóc chúng nó, và ngày sau sẽ cho tôi được gặp họ trên Thiên Ðàng. Quan lớn dạy rằng có nhiều người bỏ đạo. Vậy những thằng lính vì sợ giặc bỏ chạy cũng bỏ thầy mình thì có ra gì? Tại sao quan lớn lại dạy tôi bắt chước chúng nó?”

Sau khi xử hai đấng, tên lý hình đòi ông Lý Mỹ năm quan tiền thì sẽ xử một nhát mát mẻ. Nhưng ông bảo rằng: “Năm quan tiền để làm phúc cho kẻ khó, chẳng có tiền cho chú mình đâu, muốn băm vằm thế nào thì mặc”. Lý hình bực tức, chém một nhát trượt không đúng, chỉ đứt một miếng thịt nơi cằm, ông Lý Mỹ ngã xuống. Mãi đến nhát thứ năm mới đứt đầu.

Ông bị xử ngày 12.8.1838. Sau khi xử tử, quan cho phép ông Lý Thi được khiêng xác ba đấng về làng Kẻ Vĩnh. Trong ba đấng thì dân chúng quý ông Thánh Mỹ hơn cả. Ðúng như lời các quan đã tiên đoán về ông: “Tên này sau khi chết sẽ làm thành hoàng đất nó”.

Kết luận, thánh Lý Mỹ, đã sống và nêu gương sáng về năm đức: nhân, nghĩa, lễ, trí và tín. Làm lý trưởng, ông Lý Mỹ ăn ở có Nhân có Nghĩa với mọi người trong làng, từ những người nghèo hèn, qua tuần đinh, quan viên, đến bô lão; có Tín có Lễ với các bề trên quan quyền, cha chú, cũng như với dân làng; có trí, có đức trong mọi quyết định, hành xử, đối đáp. Đó là những lý do khiến mọi người quan quyền cũng như dân làng kính nể ông. Về đời sống gia đình, ông hiếu thảo với cha mẹ, có nghĩa có tình với vợ; có thân có từ với con cái. Còn về đời sống thiêng liêng với Chúa, lòng tin cậy mến của ông thực vững mạnh, dũng cảm và phó thác. Trong con người ông Lý Mỹ hai khuôn mặt việt nam và Công Giáo hòa đồng cuốn quyện vào nhau một cách tuyệt hảo. Chân ông đạp đất Việt Nam, lòng ông quyện vào văn hóa ngũ luân ngũ thường, trí ông mơ về một khát vọng tuyệt đối, vĩnh cửu của Nước Trời.

IV. BA THÁNH TỬ ĐẠO ĐÃ THĂNG HOA VĂN HÓA VIỆT NAM

Văn hóa Việt Nam từ thế kỷ XVII đã có thêm tầng thứ năm, đó là tầng Thiên Chúa Giáo. Vào Việt Nam, dẫu bị cấm cản liên tục trong 4 thế kỷ, từ XVII đến cuối XX, nhưng số người lớn vào đạo Công Giáo vẫn tăng, trong đó không chỉ có dân đen, nhưng cả những bậc quan quyền, trí thức. Chiếm khoảng 7% dân số, người Công Giáo đã đóng góp rất nhiều cho quê hương và tổ quốc.

Trên bình diện Văn Hóa, Các Thánh Tử Đạo đã thăng hoa Văn Hóa Việt Nam. Đạo Công Giáo đã đáp ứng những nhu cầu tinh thần và thiêng liêng sâu xa của con người, mà Khổng Giáo, một quốc giáo Việt Nam trong các thế kỷ XVII đến XX, đã tránh né không trả lời [9]. Những nhu cầu này mãnh liệt và mạnh mẽ vô cùng. Chúng có sức rời non, lấp bể, có thể làm cho các tín hữu dám hy sinh mạng sống mình. Đó là điều mà các vị tử đạo Công Giáo đã chứng minh bằng giá máu của mình, đặc biệt là 117 thánh tử đạo, trong đó có cha Năm, ông trùm Đích và ông Lý Mỹ. Các Thánh Tử Đạo không chỉ giữ gìn, thực hiện và sống Văn Hóa Việt Nam, các ngài còn làm cho Văn Hóa Việt Nam vươn cao hơn, thăng tiến hơn, tinh tuyền hơn; đem cho chúng cái giá trị thiêng liêng, đại đồng, vĩnh hằng. Nhiều thăng hoa đã được các Thánh Tử Đạo đưa đến cho Văn Hóa Việt Nam. Nhưng trong văn hóa cương thường Khổng Giáo độc tôn của Việt Nam, hai thăng hoa lớn nhất mà Công Giáo đã góp vào Văn Hóa Việt Nam là thăng hoa tam cương và thêm tầng thiêng liêng vào tầng nhân bản luân thưởng Khổng Mạnh.

1. Ba thánh tử đạo đã, cùng với các thánh tử đạo khác, thăng hoa Văn Hóa tam cang Việt Nam bằng hai bước: trở về nguồn Khổng Mạnh lấy ngũ luân thay tam cang, rồi tiến lên bước thần học tam phụ, sát nhập đạo hiếu vào giới răn thứ tư thảo kính cha mẹ. Được Thánh kinh soi sáng về sự tự do và bình đẳng của nhân quyền, phải nói thật rằng người Công Giáo đã không xác tín về tam cang Khổng Giáo. Trong Phúc Âm Mátthêu, 6, 7-13, Chúa Giêsu đã dậy các môn đệ cầu nguyện với cha của mình là Đức Chúa Cha: “Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhậm lời. Ðừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin. Vậy, anh em hãy cầu nguyện như thế này: Lạy Cha chúng con là Ðấng ngự trên trời, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày; xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con; xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em”. Như vậy, tất cả mọi người đều là con Thiên Chúa, như Thánh Gioan đã viết trong thơ I của ngài: “Anh em hãy xem, Chúa Cha yêu chúng ta dường nào. Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa, mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa”. (1Ga 3, 1). Hệ luận là tất cả chúng ta đều tự do và bình đẳng như nhau.

Thật ra không chỉ người Công Giáo đã thấy sự áp bức bất bình đẳng của tam cang. Nhiều kẻ sĩ Việt Nam đã thấy điều đó. Học giả Phan Khôi đã nhận định như sau về tam cang: “Nhà nho đời xưa có bày ra cái thuyết tam cang, cái thuyết đã làm nền móng cho xã hội ta hơn ngàn năm nay, ý cốt của nó là chỉ để tôn quyền quân chủ, lợi cho sự cai trị mà thôi. Do nó mà thành ra cái chế độ gia đình của xứ ta, do nó mà trong gia đình mới có sự áp bách quá thảm hại”.

Quân vi thần cang; phụ vi tử cang; phu vi thê cang. Cang thứ nhứt là nói về quốc gia xã hội; trong một nước, phải coi ông vua là có quyền vô thượng rồi, nhưng chưa đủ, phải thêm cang thứ nhì và thứ ba. Hai cang sau thì nói về gia đình; trong một nhà, lại phải coi cha và chồng cũng có quyền vô thượng nữa. Như vậy để làm gì? Tôi phải phục bọn Hán nho đã vắt bao nhiêu não tủy mà lập ra cái thuyết nầy rất khéo! Làm như vậy là có ý bắt kẻ làm cha làm chồng phải đè đầu con cái và vợ của mình, hầu để giữ giùm cuộc trị an cho nhà vua, chớ chẳng còn có ý nghĩa gì cao thâm hơn nữa hết, ấy luân lý của ta là vậy đó! Cái thứ quốc túy mà có nhiều kẻ đương lo bảo tồn là vậy đó [10]!

Đối với người Công Giáo, hẳn thật ngũ luân thì thích hợp hơn là tam cương. « Ngũ luân tức là: quân thần (vua tôi), phụ tử (cha con), phu phụ (chồng vợ), huynh đệ (anh em), bằng hữu (bầu bạn). Ngũ là năm, luân là đấng bậc; ngũ luân là một cái tổng cương trong luân lý, như là cái giấy giao kèo để buộc năm đấng bậc ấy phải ở với nhau cách nào. Bởi vì tóm hết thảy người trong xã hội mà chia ra, chẳng qua có năm đấng bậc ấy; mà mỗi một đấng bậc có hai bên đối nhau, thì bên nầy phải có cách đối với bên kia, hầu cho hết bổn phận mình.

Khổng Mạnh khi nào nói đến ngũ luân đều là để phát huy cái ý ấy. Sách Trung dung, chương XX, Khổng Tử nói rằng: Vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bầu bạn: năm điều ấy là cái đạo thông hành của thiên hạ vậy. ở sách Luận ngữ, thiên Nhan Uyên, ngài đáp lời Tề Cảnh Công hỏi mà nói rằng: Vua phải đạo vua; tôi phải đạo tôi; cha phải đạo cha; con phải đạo con. Sách Đại học, chương III, khi nói về Văn Vương, ngài nói rằng: Làm vua người, đỗ ở nhân; làm tôi người, đỗ ở kính; làm con người, đỗ ở hiếu; làm cha người, đỗ ở từ; giao với người trong nước, đỗ ở tín. Lại ở sách Luận ngữ, thiên Bát Dật, đáp lời Định Công hỏi, ngài nói rằng: Vua lấy lễ khiến tôi; tôi lấy lễ thờ vua. Còn Mạnh Tử, ở thiên Đằng Văn công thượng trong sách ngài, ngài cũng nói rằng: Cha con có tình thân; vua tôi có nghĩa; chồng vợ có biệt; kẻ lớn trẻ con có thứ; bậu bạn có tín….

Nói về ba luân vua tôi, cha con, chồng vợ, là ba cái đấng bậc mà danh phận huyễn thù nhau hơn hai cái kia, Thánh Hiền cũng chưa hề nâng một bên nào lên, hạ một bên nào xuống. Đọc hết thảy kinh truyện, những lời chính miệng Khổng Mạnh nói ra, không hề có một lời nào nâng cao người làm vua, làm cha, làm chồng lên, mà đè ẹp người làm tôi, làm con, làm vợ xuống bao giờ. Nhưng, trái lại, trong sách Hiếu kinh lại có dạy rằng: Quân hữu tránh thần, phụ hữu tránh tử, nghĩa là: Vua, nhờ có bầy tôi hay can gián; cha, nhờ có con cái hay can gián. Câu ấy tỏ ra rằng khi người làm vua làm cha không hết bổn phận mình, bầy tôi và con cái có quyền được xét nét. Cái bổn ý của Khổng Mạnh về luân lý là như vậy đó thì làm sao nẩy sanh được tam cang? Cho nên cái thuyết tam cang, hồi đời Khổng Mạnh chưa có, mà trước và sau kề đó cũng chưa có [11].

Vì, như lời thầy Mạnh Tử, “Cha con có tình thân; vua tôi có nghĩa; chồng vợ có biệt; kẻ lớn trẻ con có thứ; bầu bạn có tín”, thứ tự, trước nhất không phải là vua tôi, nhưng là cha con. Điều đó có nghĩa là việc nhân luân phải đi từ gần tới xa, từ cha đến vua, từ hiếu đến trung, từ thân đến nghĩa.

Cha Năm, ông trùm Đích và ông Lý Mỹ, cũng như tất cả các thánh tử đạo khác, thấy vua bất nhân, bất nghĩa đi giết người lành, vô tội và lương thiện, chỉ vì họ là Công Giáo, đã áp dụng nguyên tắc “quân hữu tránh thần” của luân vua tôi để can ngăn vua quan một cách hiền lành và bất bạo động của bậc thánh nhân, bằng cách nhận cái chết một cách vui vẻ, không than trách, mong rằng vua sẽ hiểu ra. Nhưng cơn oán giận, bực tức của các vua quan đã quá mạnh, khiến họ không còn tự chủ được mình, lòng kiêu căng thúc đẩy thêm, họ đã không còn bình tĩnh và khôn ngoan tối thiểu để nhìn ra lẽ phải. Biết nói thế nào được! Ngay đến chính di chúc “không được phép bách hại đạo” trăn trối của cha ruột mình là vua Gia Long, và lời khuyên của mẹ ruột mình “đừng bách đạo”, mà vua Minh Mệnh cũng còn chẳng nghe!

Một số các vị tử đạo còn muốn thăng hoa văn hóa tam cang và ngũ luân thêm một bậc nữa, lồng “cang quân thần” vào “cang tam phụ” của đạo hiếu. Cuộc đối đáp giữa quan tòa và cha Phêrô Nguyễn Văn Tự, dòng Đa Minh, bị bắt ngày 29.6.1838 và bị xử trảm ngày 5.9.1838 dưới thời Minh Mệnh cho thấy cha Tự hiểu sâu xa thần học Tam Phụ, mà các vị truyền giáo đã giảng dạy cho tín hữu Việt Nam, bất đầu từ cha Đắc Lộ, qua kinh bổn và các sách giáo lý “Chân đạo yếu lý” và “Chơn đạo dẫn giải” [12].

Cha Tự bị điệu ra đầu tiên, một trong những quan tòa hỏi cha: “Cha có biết là đức vua rất thương hại cha không? Cha chỉ việc bước qua thập giá là vua sẽ khoan hồng đại lượng với cha. Vì cha vẫn còn trẻ (43 tuổi) hơn nữa cha mới từ miền Nam tới, nên chúng tôi rất buồn nếu phải xử án tử cho cha. Vậy cha nghĩ sao?” Cha Tự trả lời: “Tôi rất kính trọng đức vua nhưng đồng thời xin quan cứ việc xử tôi như người theo đạo Thiên Chúa. Vì Ngài là Chúa cả trời đất nên tôi phải thờ lạy, nếu vua cho phép tôi được sống, tôi hết lòng đa tạ, bằng không nếu vua muốn xử án chết, tôi xin tuân theo, còn ngoài ra với bất cứ giá nào tôi không thể làm theo ý vua”. – “Thôi, đủ rồi! Tôi đã quyết định rồi cha không phải bị hành khổ nữa!”

Cha Tự lại bắt đầu cầu nguyện càng sốt sắng hơn để xin Chúa duy trì đức tin cho hai thầy giảng và bốn giáo hữu. Theo lời tường thuật của giám mục Marti, để dụ dỗ cha quá khóa, ngày 19.8.1838 quan mời cha ngồi chiếu hoa và đàm đạo về giáo lý. Cha gợi truyện với quan: – “Tôi luôn tôn kính ba cha”.- “Ba cha nào?”- “Thiên Chúa là Cha trên trời, là Chúa Tể, là Vua, và cha dưới trần là đức vua, và cha thấp hơn nữa là cha của tôi”. – “Tốt lắm, nhưng cha hãy nghĩ lại đi, nếu vua là cha thay Chúa, Ngài truyền cho cha phải bước qua thập giá mà cha không vâng lời, vậy cha không làm vua phật ý sao?” – “Không phải vậy, khi vua và cha tôi truyền cho tôi làm điều xấu như đạp qua thánh giá là dấu chỉ của Cha trên trời làm sao tôi có thể theo được?”

Rồi hai người vẫn tiếp tục truyện trò: “Tại sao cha không thờ cúng cha mẹ tổ tiên?” – “Khi cha mẹ tôi còn sống tôi rất mực trọng kính các người, tôi lo lắng và săn sóc chu đáo, nhưng khi các ngài chết, các ngài không còn ăn uống nữa vì linh hồn là thiêng liêng không cần gì nữa. Cha mẹ của quan đã mất, mà quan vẫn còn thờ cúng chuối oản như là các ngài còn sống, nếu các ngài ăn được, các ngài đã dùng rồi. Còn như vàng bạc tiền nong gửi cho họ bằng cách đốt đi, nếu giả như họ dùng được tại sao quan lại không đốt vàng thật hay tiền thật? Làm vậy không phải là một trò diễu cợt người chết ư?” [13]

Nghe cha Tự cắt nghĩa về thần học tam phụ như vậy, thì ai còn có thể bảo được rằng người Công Giáo không thờ cúng cha mẹ tổ tiên, không trung thứ với vua quan? Trong mười điều răn đạo Đức Chúa Trời, điều răn thứ bốn dậy “Thảo kính cha mẹ”; Nhưng điều răn thứ nhất dạy “Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự”.

2. Ba Thánh Tử Đạo lắp thêm tầng thiêng liêng lên tầng nhân bản Khổng Giáo: Thêm vào ngũ luân ngũ thường, Ba thánh mang vào Tin, Cậy, Mến; Thêm vào Tam đa Ngũ phúc, Ba thánh mang vào Tám mối phúc thật. Những khái niệm luân lý chính của Khổng Tử về ngũ luân, ngũ thường không xa với những khái niệm nhân đức Công Giáo ở mức độ nhân bản là bao nhiêu. Đó là Năm nhân đức đối nhân, là những đức tính nhân bản, những xu hướng bền vững, dẫn đến thái độ kiên định và thói quen hướng thiện của lý trí và ý chí; nhờ đó con người điều chỉnh các hành vi và cách sống của mình theo lý trí và đức tin. Có năm đức tính đối nhân: bác ái, khôn ngoan, công bình, can đảm và tiết độ. Thêm vào đó, Công Giáo đặc biệt chú trọng đến ba nhân đức đối thần, là những nhân đức quy chiếu trực tiếp về Thiên Chúa như căn nguyên, động lực và là đối tượng. Ba nhân đức này không được Khổng Giáo biết đến. Nhưng đối với Công Giáo, các nhân đức đối thần là nền tảng và linh hồn của toàn bộ đời sống luân lý. Thiên Chúa ban cho ta những nhân đức nầy, để ta có khả năng hành động như con cái Thiên Chúa và đáng hưởng sự sống đời đời. Ba nhân đức đối thần là Tin, Cậy Mến. Đức Tin là một nhân đức nhờ đó ta tin vào Thiên Chúa, tin tất cả những gì Người nói và mặc khải, cũng như những gì Hội Thánh dạy ta phải tin. Đức Cậy đặt hết niềm tin vào một đối tượng, cậy nhờ đối tượng ấy trợ giúp để hoàn thành một tâm nguyện đạt đến cứu cánh vĩnh cửu. Đối tượng duy nhất để cậy nhờ ở đây là Đức Kitô, sự trợ giúp là Chúa Thánh Thần, và cứu cánh chính là hạnh phúc Nước Trời. Đức mến là nền tảng Kitô giáo, là đức yêu thương không bờ bến, không giới hạn nhằm đến 2 đối tượng chính yếu: Thiên Chúa và con người: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mt 22, 37-39).

Trong văn hóa sống thường ngày của người Việt Nam, ba cái nhiều là nhiều con, nhiều cháu, nhiều giầu có và năm cái phúc là được giầu có, được sang trọng, được sống lâu, được khỏe mạnh, và được bình an. Công Giáo không chối bỏ tam đa ngũ phúc, nhưng đặc biệt quan tâm đến tám mối phúc thật, như lời giảng của Đức Giêsu Kytô rằng: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì nước trời là của họ. Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Nước làm cơ nghiệp. Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con và bởi ghét Thày, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời” (Mt, 5, 1-12).

Cha Năm, ông trùm Đích và ông Lý mỹ đã vượt trên tam đa, ngũ phúc vật chất ở đời này để vui mừng hân hoan đón nhận bị giết hại vì danh Chúa Giêsu, chẳng những đã đốt sáng ngũ luân, ngũ thường, mà còn hơn nữa, đã thăng hoa chúng, đưa chúng đến đức tin, đức cậy và đức mến, và dám dâng mạng sống mình để làm chứng về Chúa Giêsu. Tất cả 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam đều hiểu biết và thấm nhuần tám mối phúc thật Chúa Giêsu giảng dậy. Các ngài tất cả đều đã tin vào đạo thật và vui vẻ làm chứng cho đạo thật.

Thánh Martinô Thọ, người thu thuế, trả lời quan: “Dù quan có giết vợ con tôi, tôi cũng chẳng quá khóa bỏ mất phúc thiên đàng. Vì tôi mong ước phúc thiên đàng cho nên tôi mới vui lòng chịu khổ như thế này”. Bị bắt ngày 30.5.1840 về tội chứa chấp cha Ngân, và bị xử trảm ngày 8.11.1840, khi nghe tin ông Lý Mỹ, ông binh Ðạt và Huy được chịu chết vì đạo, ông Thọ cũng ước ao được chịu chết vì đạo như vậy. Ông đến Kẻ Vĩnh viếng xác ông Lý Mỹ và ông trùm Ðích. Về nhà ông bảo vợ con: “Nếu Ðức Chúa Trời có định cho tôi bị bắt và chịu khó vì đạo như hai ông ấy thì mọi người hãy bằng lòng, dù có mất của cũng đừng phàn nàn. Nếu chúng con bị bắt thì cũng phải xưng đạo cho mạnh mẽ”. Khi bị bắt và bị giam tạm tại Trại Lá, sau khi bị tra hỏi các ngài được chuyển sang trại tù. Mấy người con của ông Thọ được phép đến thăm mấy lần. Ông khuyên các con của ông: “Thiên Chúa nhân lành định rằng cha không còn về với các con nữa, nhưng các con còn có mẹ, hãy vâng lời mẹ. Các anh chị lớn hãy lo đùm bọc các em nhỏ, các con nhỏ chịu khó vâng lời. Hãy can đảm làm việc chăm chỉ để phụng dưỡng mẹ, hãy trung thành đọc các kinh sáng kinh chiều và lần hạt. Thiên Chúa ban cho mỗi người một thánh giá, các con hãy vui lòng vác lấy và can đảm chịu khổ để giữ đạo. Cha không còn làm gì để giúp các con dưới trần này được nữa, cha chỉ còn lo sửa soạn ra đi, vậy sau khi cha chết rồi, chú Chấn và mẹ các con chết rồi, thì hãy chia nhau tài sản. Nếu sau này được phép, các con mang xác cha về chôn nơi cha bị bắt. Những gì cha đã làm cho các anh chị lớn khi còn ở nhà thì các anh chị lớn cũng phải làm như thế cho các em nhỏ”. Sau nhiều đánh đập và tra khảo không xong, Tổng Đốc Trịnh Quang Khanh lại dụ dỗ ông đạp ảnh để được về nhà lo lắng cho vợ con, ông Thọ thưa: “Cửa nhà và vợ con tôi là của Ðức Chúa Trời, tôi chẳng có gì, chẳng tiếc gì. Tôi xin quan lớn cho tôi một lát gươm mà thôi”. -“Nếu tao bắt được vợ con mày và làm khổ trước mặt, mày có bỏ đạo không?” – “Dù quan có giết vợ con tôi, tôi cũng chẳng quá khóa bỏ mất phúc thiên đàng”. “Vậy mày ước ao thiên đàng lắm hả?” – “Bẩm ông lớn, vì tôi mong ước phúc thiên đàng cho nên tôi mới vui lòng chịu khổ như thế này. Khi nào quan lớn thương cho tôi một lát gươm, bấy giờ linh hồn tôi sẽ bay thẳng lên Trời”.

Quan Micae Hồ Ðình Hy trả lời cho các quan rằng “không bỏ đạo và cho tới hôm nay tôi vẫn cương quyết giữ đạo”. Một người làm quan lớn lại có lòng thống hối như quan thái bộc Hồ Ðình Hy đã để lại một tấm gương thánh thiện và hết lòng vì đạo cho đến giọt máu cuối cùng. Ngài thường nói với vợ: “Tôi đầy rẫy những tội lỗi, dù nước sông nước nguồn có từ khắp nơi chảy về cũng chẳng đủ rửa tội tôi cho sạch. Tôi phải đổ máu ra mà rửa tội tôi thì cũng còn sợ chẳng biết cân xứng không”. Có một quan tên là Phạm Y đến lãnh vải nơi quan thái bộc Hy, đòi cho được thứ vải tốt vượt mức phẩm hàm nên bị từ chối, ông để lòng hiềm thù, họp bàn với mấy quan khác để tìm cách hãm hại quan Hồ Ðình Hy. Ngày 8.11.1856, các quan này dâng sớ tố cáo quan thái bộc với vua Tự Ðức và quan Hồ Đình Hy đã bị bắt ngay. Ngày hôm sau, 9.11, các quan chính thức tra xét và bắt ngài làm lời khai. Ngài khai như sau: “Tôi 53 tuổi, người làng Nhu Lâm. Cha mẹ có đạo, đã cho tôi đi học chữ Nho từ thuở nhỏ. Năm Minh Mệnh thứ bẩy (1826), tôi được vào làm trong Bộ Công giúp việc nhà nước ba mươi mốt năm, sau được Vua thương ban quan tước tam phẩm, tước thái bộc giúp việc nhà Vua. Ðạo cha ông tôi vẫn giữ trong lòng. Năm ngoái có sắc lệnh Vua cấm, tôi giả đò bề ngoài để che dấu, nhưng thực sự không bỏ đạo và cho tới hôm nay tôi vẫn cương quyết giữ đạo”. Và ngài vẫn giữ một lòng trung dũng sắt đá như vậy. Tới ngày 22.5.1857 là ngày xử nhưng không quan nào nhận trách nhiệm, mãi đến trưa mới có quan chịu dẫn 100 lính đem ra chợ An Hòa xử tử ngài. Mới nghe tiếng chiêng trống ngài sợ hãi toát mồ hôi nhưng rồi trấn tĩnh lại. Theo qui ước hễ thấy ngài làm dấu thì linh mục ở giữa đám đông sẽ ban phép giải tội, bởi vậy cứ thỉnh thoảng ngài lại làm dấu để mong cha trông thấy. Dân chúng theo sau thì thầm: “Nào người này có phạm tội gì đâu, không trộm cắp hay bớt xén công quĩ, thật chỉ vì giữ đạo Thiên Chúa mà phải khổ sở”.

Cha Philipphê Phan Văn Minh đã trối với giáo dân: “Thiên Chúa muốn tôi dâng sự sống cho Ngài để đạo thánh được rạng rỡ, tôi vui mừng vâng theo ý Chúa”. Năm 1848 Tự Ðức ra lệnh cấm đạo đầu tiên và buông sông các thừa sai nếu bắt được. Và năm 1851 ra lệnh nghiêm ngặt hơn cho các tổng đốc phải tận diệt đạo Kitô. Bị bắt ngày thứ Bảy, 26.2.1852, cha Minh bị giải đến Vĩnh Long. Quan Tổng Đốc dụ dỗ nhiều cách. Khi thì dụ quá khóa để làm quan, hay làm thuốc. Cha trả lời : “Không có lẽ nào tôi quá khóa. Tôi dậy dỗ bổn đạo mà người ta còn chẳng dám làm điều quái gở ấy phương chi là tôi. Quan bắt giết thế nào thì tôi xin chịu”. Khi lại nói không cần phải đạp ảnh, chỉ cần nói là xuất giáo thì cũng tha. Cha Minh đáp lại: “Tôi làm như thế cũng không được vì phạm tội phản bội cùng Chúa, cùng các thầy dậy và là người láo xược. Là giáo trưởng mà nói rằng mình không phải là giáo trưởng là lừa dối mọi người”. Lúc khác lại dụ cha khai rằng các đồ đạo là của đạo trưởng Tây giao cho giữ và như thế các quan có thể tha mà không sợ lỗi lệnh vua. Cha Minh một mực thưa: “Xin các quan xét cho tôi, tôi không thể khai dối trá được. Các quan có làm án chém tôi thì tôi sẵn lòng, còn khai theo lời quan dậy thì không dám”. Dụ cách nào cũng không được, các quan họp nhau làm bản án cho cha Minh phải lưu đầy Sơn Tây. Nhưng Nội các xem án của các quan tỉnh Vĩnh Long thì không ưng, biện luận rằng: “Ðạo trưởng ấy đã đi Tây từ thuở bé và lâu năm ăn học bên ấy nên đã thấm nhập với Tây, lại là đạo trưởng nên phải kể là Tây dương đạo trưởng. Vậy phải sửa án là trảm quyết quăng đầu xuống sông”. Bản án của triều đình về tới tỉnh Vĩnh Long tối thứ bẩy 2.7. Và sáng hôm sau, Chúa Nhật lễ kính Máu Thánh Chúa Giêsu, quan tổng đốc cho lệnh xử ngài. Trước khi bị dẫn ra pháp trường, cha an ủi các quí chức còn bị giam: “Anh em yêu dấu, Thiên Chúa muốn tôi dâng sự sống cho Ngài để đạo thánh được rạng rỡ, tôi vui mừng vâng theo ý Chúa. Trước khi lìa xa anh em, tôi xin anh em dù phải khốn khổ thế nào mặc lòng hãy trung thành bền đỗ trong đức tin, trông cậy vào Chúa giúp sức thì Ngài chẳng bỏ anh em”.

KẾT LUẬN

Triều đại vua Minh Mệnh, đã xẩy ra cuộc xưng đạo và bách đạo của 58 thánh tử đạo, trong đó có ba thánh: Linh mục Giacôbê Đỗ Mai Năm, ông trùm Antôn Nguyễn Đích và ông lý trưởng Micae Nguyễn Huy Mỹ. Cả ba đấng đều đã bị bắt một ngày, 03.07.1838 và đã bị xử trảm một nơi, ở pháp trường Bảy Mẫu vào ngày 12.08.1838.

Ba thánh đã bị theo dõi, bị tố cáo và bị bắt, bị nộp cho quan, vì là Công Giáo. Các ngài đã bị đánh đập giữa hội đường, bị điệu ra trước tòa quan quyền vì tin vào Chúa Kytô. Bị tra khảo, có lúc ông trùm Đích lo sợ, muốn sờn lòng, khi nghĩ đến những hình khổ sẽ phải chịu. Nhưng rút cục, cả ba đấng đều đã can đảm trả lời xưng đức tin một cách công khai và rõ rệt, để làm chứng rằng đạo Thiên Chúa là đạo thật. Quyết định của vua quan tuyên bố xử trảm ba thánh cũng nói rõ rằng ba thánh phải chết vì đã tin theo đạo Gia Tô. Các ngài không chống đối, phản kháng, nhưng đã chấp nhận án chết vì đạo một cách vui vẻ.

Qua cái chết của mình, ba thánh tử đạo đã sống và đốt sáng Văn Hóa Việt Nam. Cho đến thế kỷ XVI, Văn Hóa Việt Nam bao gồm bốn tầng: Âu Lạc, Ấn Phật, Lão Trang và Khổng Mạnh. Nhưng các vua quan Việt Nam, bị ảnh hưởng Hán Nho, muốn bảo vệ quyền hành nhà vua, đã độc tôn Khổng Giáo và rứt ra ba cái trong ngũ luân để lập thành thuyết tam cương. Trên bình diện tổng quát, không một vị nào trong 117 hiển thánh tử đạo Việt Nam đã làm chính trị. Ngược lại, tất cả các vị đều rất tôn trọng vua quan và hết lòng vì quê hương. Riêng về cha Năm, ông trùm Đích và ông Lý Mỹ, cả ba vị đều có cuộc sống khôn ngoan, ngay thẳng, nhân nghĩa, trung tín, đáng làm gương văn hóa cho mọi người Việt Nam. Cha Năm, giáo sĩ đạo trưởng, trung tín với Chúa và giáo dân, nhân ái với mọi người, can đảm và vui vẻ đón nhận tử đạo, để làm gương cho giáo dân, rao giảng Phúc Âm cho lương dân và làm vinh danh Thiên Chúa. Gương công chính của cha và của các thánh tử đạo làm nhiều quan chức đã không đồng ý bắt đạo và đã tìm kiếm cách cứu giúp, kết nghĩa, trọng đãi và tránh xử án. Ông trùm Đích, gia trưởng, đã nêu gương sáng thực hành ngũ luân ngũ thường. Đặc biệt ông nêu gương sáng về luân phụ tử, biết có thân tình và nhân từ để giáo dục con cái và về luân phu phụ, biết giữ nghĩa tào khang vợ chồng và biết hữu biệt để lo việc giao thiếp bên ngoài mà dành cho vợ việc nội trợ trong nhà. Ông Micae Mỹ, lý trưởng, khôn ngoan, hiếu trung, nhân nghĩa lễ. Trong chức vụ lý trưởng giúp dân giúp làng, ông Lý Mỹ đặc biệt nêu gương sáng về ngũ thường: nhân, nghĩa, lễ, tín và nhất là trí, khôn ngoan. Ông cũng đã nêu gương sáng về ngũ luân, đặc biệt chữ thân, chữ từ với con cái để giáo dục chúng và chữ nghĩa tào khang với vợ để xây dựng một gia đình “chồng hòa, vợ thuận, nhà thường yên vui” và chữ hiếu với cha mẹ, kể cả cha mẹ vợ. Chính vì vậy mà ông đã được quan quân và dân chúng kiêng nể. Sở dĩ ba đấng đã nêu được gương sáng Văn Hóa Việt Nam về ngũ luân ngũ thường, là nhờ cả ba đấng đều đã thực hành tốt đẹp tám nhân đức nền tảng Kitô Giáo trong hai chiều kích “Mến Chúa, Thương Người”: ba nhân đức đối thần Mến Chúa là tin, cậy, mến; và năm nhân đức đối nhân Thương người là bác ái, khôn ngoan, công chính, can đảm và tiết độ.

Không những ba thánh tử đạo, cha Năm, ông trùm Đích, ông Lý Mỹ, đã đốt sáng mà còn thăng hoa Văn Hóa Việt Nam nữa. Nhờ cách ứng xử của các ngài, của 117 thánh tử đạo, của trăm, ngàn, vạn, triệu người Công Giáo, Văn Hóa Việt Nam, từ thế kỷ XVII, đã có thêm tầng tạo hình thứ năm, đó là tầng Thiên Chúa Giáo. Trên bình diện Văn Hóa, ba thánh tử đạo đã cùng với các thánh tử đạo khác thăng hoa tam cương bằng hai bước: trở về nguồn Khổng Mạnh, lấy ngũ luân thay tam cương, rồi tiến lên bước “thần học tam phụ”. Và một cách tổng quát, các ngài đã xây thêm tầng thiêng liêng trên tầng nhân bản luân thường Khổng Mạnh, bằng cách mang Tin, Cậy, Mến vào ngũ luân ngũ thường, và mang tám mối phúc thật vào tam đa ngũ phúc. Như vậy, ba thánh cùng các thánh tử đạo khác, đã làm cho Văn Hóa Việt Nam vươn lên cao hơn, thăng tiến hơn, tinh tuyền hơn, đem cho nó cái giá trị thiêng liêng, đại đồng, vĩnh hằng.

Kết luận bài giảng ngày tuyên phong Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 19.6.1988, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã gửi tới người Việt Nam lời cuối cùng này: «Anh em: dòng giống các vị Tử Đạo! Anh em: dòng giống những người được kén chọn. Anh em hãy nghe hết lời sách Khôn Ngoan: “Trong ngày phán xét họ sẽ long lanh như những tia sáng chiếu trên đồng cỏ từ đông sang tây (3:7). Những tia sáng, những ánh đèn phản chiếu nguồn quang minh rực rỡ. Và đây là câu sau cùng trong sách Khôn Ngoan: “Các dân tộc sẽ trị vì, họ cai trị dân chúng. Nhưng trên hết tất cả, Thiên Chúa sẽ thống trị mọi loài” (3:8). Chúa đây, tức là Chúa Kitô tử nạn và phục sinh, ngài xuống trần gian “không để xét xử thế giới, nhưng để thế giới nhờ ngài mà được cứu rỗi” (Gioan 3:17). Chính Chúa Kitô này: anh em đã tham gia vào cuộc thống khổ và tử nạn thập giá của ngài, hôm nay anh em hãy tham gia vào việc cứu rỗi trần gian mà chính ngài đã kết liễu. Nguyện chúc cho mùa lúa vàng của anh em muôn năm tồn tại trong hoan lạc».

Mùa lúa vàng là kết quả của những lao khổ. Các thánh tử đạo Việt Nam đã “rao giảng Chúa Giêsu tử nạn thập giá” (I Cor 1:23), đã chẳng những không từ bỏ mà còn đốt sáng thăng hoa Văn Hóa Việt Nam. Đã mang vào đó những giá trị trường cửu, đại đồng và thiêng liêng, đã đáp ứng những khát vọng tuyệt đối của con người, những nhu cầu tin, cậy, mến vào một Chúa Trời. Đó là lý do khiến 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam vui vẻ ra pháp trường “lãnh nhận phúc tử vì đạo”. Đó cũng là lý do sâu xa giải thích tại sao, xưa cũng như nay, người Việt Nam gia nhập đạo Công Giáo.

Những người Việt Nam đầu tiên đã theo đạo Công Giáo vào thế kỷ XVII vì đã thấy được những giá trị thiêng liêng của đạo thật. Đến Đàng Ngoài vào năm 1631, cha A.Francisco Cardim thuộc dòng Tên đã ghi lại những thành quả truyền giáo từ năm 1631 đến 1641 như sau: “năm 1631 đã rửa tội được 5.727 người, năm 1633 có 9.797, năm 1634 có 9.874, năm 1635 có 8.176, năm 1636 được 7.121, năm 1637 được 9.707, năm 1638 được 9.076, năm 1639 được 12.234, năm 1640 được 10.070 và năm 1641 tất cả những người đã chịu phép rửa thì lên tới con số 108.000. Thêm vào đó, trong những năm này đã được 235 nhà thờ trong nhiều nơi. Thật là những kết quả lớn lao, nếu xét ra chỉ có một số thợ rất ít được sai tới để gặt hái…. Số những người được rửa tội có thể là khá lạ lùng và không thể tin được bởi vì rất ít các cha được phái tới đây. Nhưng tôi có thể trả lời và làm thỏa mãn những người nghĩ tưởng như vậy; tôi đưa ra những lý lẽ vững chãi, ngoài ơn và sự hộ phù đặc biệt của Thiên Chúa là nguyên nhân chính yếu của mọi công việc tốt lành, đó là như căn bản và nền tảng các việc trở lại đạo ta, thì còn những lý do làm cho người ta có thể tin được như sau”:

Lý do thứ nhất làm cho lương dân theo đạo ta tại xứ Đàng Ngoài là nhiệt tình không thể tưởng tượng được của họ để học hỏi và hiểu biết các điều tin trong đạo, và lòng ham muốn rất lớn để sau khi đã học thì đi truyền bá và giải thích cho những người khác. Tất cả đều thú nhận là họ không thể tự cầm mình không làm việc này được….

Lý do thứ hai, các quan ngoại đạo đối xử với dân thì rất kiêu căng và ngạo mạn, đến nỗi không thèm nhìn tới dân, nếu có thì cũng là cách cau có; nhưng khi trở lại đạo thì họ hoàn toàn thay đổi cách ăn ở, đối xử rất nhân ái và thân thương, tiếp đón họ lịch thiệp, làm cho lương dân khốn đốn khi thấy sự thay đổi đó thì phải thú nhận Kitô giáo là đạo rất tốt rất thánh; họ cũng nhận thấy sự hiền từ và dịu dàng nơi các Kitô hữu; thế là họ tới tìm các cha để xin học giáo lý và chịu phép rửa tội.

Lý do thứ ba, họ rất tôn trọng vong linh người quá cố, và khi thấy các Kitô hữu làm đám tang cho người đồng đạo qua đời với tất cả danh dự như đưa xác với đuốc sáng, nến thắp và những lễ nghi trang trọng, họ cho đạo ta rất thích hợp với tâm tư của họ.

Lý do thứ tư, vì Thiên Chúa cho phép trong xứ này ma quỷ hành hung rất dữ dằn những người ngoại đạo, không những nơi bản thân họ mà còn làm hại cả nhà cửa tài sản họ, đến nỗi nhiều khi nó bốc người ta lên trên không cho tới mái nhà rồi cho rớt xuống đất một cách rất dữ dằn, làm cho người ta chết.

Lý do thứ năm, dân đất nước này rất kiêu căng và ngạo mạn như tôi đã nói; các quan và kẻ quyền thế muốn cho người ta phải cúi sâu chào kính mình, thần dân phải sấp mặt tới đất lạy đức quân vương; cũng vậy các môn đồ đối với tôn sư. Lương dân thấy các cha không muốn cho người ta tỏ lòng tôn kính như thế đối với mình, lại còn ngăn cản các Kitô hữu. Thế là họ rất có cảm tình ngay với đạo ta và tự nguyện xin theo. Hơn nữa, họ còn nhận thấy các cha giảng dạy không vì tư lợi mình, nhưng để cho họ chiếm được cõi Trời.

Tôi thêm vào tất cả những lý do này một lý do chính khác, đó là sự bắt bớ ôn hòa của bạo vương. [14].

Những người Việt Nam hôm nay tiếp tục xin gia nhập đạo Công Giáo cũng vì đã cảm được những cái phúc thiêng liêng. Sáu lý do mà cha A. Francisco Cardim, S.J., đã nêu ra thúc đẩy người Việt Nam trở lại đạo trong thế kỷ XVII, cũng đã là những lý do thúc đẩy nhiều người Việt Nam khác trở lại đạo vào các thế kỷ sau và ngay cả cho hôm nay. Lễ Phục Sinh vừa qua, ngày Chúa Nhật 08.04.2012, Giáo xứ Việt Nam Paris đã đón nhận 25 tân tòng nhập đạo, trong đó có Giáo sư Vũ quốc Thúc. Nhiều người thắc mắc hỏi tại sao và do đâu mà những tân tòng này đã trở lại đạo? Đức ông Mai Đức Vinh [15], người lo việc dậy giáo lý tân tòng trên ba chục năm nay (1977-2012) tại Giáo Xứ Việt Nam Paris cũng đã đặt câu hỏi và đã trả lời: “Những động lực nào đã thúc đẩy người Việt Nam xin học giáo lý để gia nhập đạo Công Giáo?” Xin thưa:

• Vì đã khấn hứa với Chúa và Đức Mẹ (đặc biệt khi rời Việt Nam,…);

• Vì đã lãnh nhận một ân huệ Chúa và Đức Mẹ ban (ơn khỏi bệnh, ơn thoát nạn, được việc làm,…);

• Vì muốn gia đình được hiệp nhất trọn vẹn và bảo đảm hạnh phúc lâu bền (các đôi bạn đã lập gia đình một số năm, hay sắp lập gia đình,…);

• Vì cảm mến đạo Công Giáo (thấy đạo Công Giáo quan tâm nhiều về bác ái nhân đạo, có những nhân vật nổi tiếng, như Mẹ Têrêxa Calcutta, Abbé Pierre, Đức Gioan Phaolô II, hoạt động bác ái của Giáo Xứ Việt Nam,…);

• Vì ảnh hưởng tốt của các bạn Công Giáo (ngoại quốc hay Việt Nam, có khi đã quen thân lâu năm, có khi những năm ở ca đoàn, trong một sinh hoạt, như JMJ, trại hè,…)

• Ngoài ra, Đức Ông còn nhắc đến một động lực khác nữa, thúc đẩy, lôi cuốn và đưa đến Thiên Chúa Tình Yêu. Đó là ảnh hưởng của những người bạn đời hay bạn thân, có đời sống và liên hệ hằng ngày với các lương dân dự tòng, những người đồng hành lâu dài, những người giúp hiểu giáo lý, những người nhận đỡ đầu.

Quả thật “Máu các Tử Đạo là hạt giống sinh nhiều tín hữu” (Tertulien)

————————

1. Vũ Thành, Dòng Máu Anh Hùng, Hoa Kỳ 1987, tập 2, tr. 171-179

2. Vũ Thành, Sđd, tập 2, tr. 196 203.

3. Vũ Thành, Sđd, tập 2, tr. 180 195

4. Xin xem Bài giảng của Đức Thánh Cha GIOAN PHAOLÔ II trong ngày tuyên phong Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 19.6.1988, in http://www.dunglac.org/index.php?m=module2&v=chapter&id=61&ib=151&ict=1840

5. Mạnh Tử, quyển 3, Đằng Văn Công (Thượng), câu thứ tư.

6. Vũ Thành, Sđd, tập 2, tr. 77-81.

7. Ibid. tập 2, tr. 402.

8. Ibid. tập 3, tr. 225-226.

9. Tử Cống viết: “Phu tử chi văn chương, khả đắc nhi văn dã, phu tử chi ngôn tính dữ thiên đạo, bất khả đắc nhi văn dã”. Dịch. – Tử Cống nói: “Công trình nghiên cứu về văn hóa (như Thi, Thư, Lễ, Nhạc) của thầy (tức Khổng tử) thì chúng ta được nghe, còn quan niệm về thiên tính và đạo trời của thầy thì chúng ta không được nghe” (Luận Ngữ, Bản dịch của Nguyễn Hiến Lê, V.12). Phàn Trì vấn trí. Tử viết: “Vụ nhân chi nghĩa, kính quỉ thần nhi viễn chi, khả vị trí hĩ”. Vấn nhân. Viết: “Nhân giả tiên nan nhi hậu hoạch, khả vị nhân hĩ”. Dịch. – Phàn Trì hỏi thế nào là trí (sáng suốt). Khổng tử đáp: “Chuyên tâm làm việc nghĩa giúp người, kính trọng quỉ thần nhưng tránh xa, như vậy có thể gọi là trí” (Ibid., VI.20)

10. Phan Khôi: Gia đình ở xứ ta, nay cũng đã thành ra vấn đề rồi in: Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, số 83 (21.5.1931).

11. Phan Khôi: Cái chế độ gia đình nước ta đem gióng với luân lý của Khổng Mạnh In Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, số 85 (4.6.1931)

12. Xin xem Trần Văn Toàn, BÀN VỀ THUYẾT ‘’TAM PHỤ’’ TRONG ĐẠO Thiên Chúa, MỘT BƯỚC ĐI VÀO VĂN HÓA VIỆT NAM

13. Vũ Thành, Sđd, t ập 2, tr. 221-225

14. A. FRANCISCO CARDIM – TƯỜNG TRÌNH VỀ ĐÀNG NGOÀI (A); Hồng Nhuệ dịch; Paris 1989

15. Mai Đức Vinh, In: 60 năm Giáo xứ Việt nam Paris, 1947-2007, Giáo Xứ Việt Nam Paris; 2010, tr. 579

Thánh Phêrô Dumoulin-Borie Cao

Linh Mục Thừa Sai Balê (+1838)

Thánh Matthêu Nguyễn Văn Đắc

Trùm Họ (+1861)

LỜI CHÚA MỖI NGÀY

BÀI MỚI NHẤT

VATICAN NEWS

VIETCATHOLIC NEWS