Theo Jonathan Liedl của National Catholic Register trong bản tin ngày 3 tháng 10, 2024, Nhóm nghiên cứu về các vấn đề tình dục đã trình bày đề xuất của mình về ‘sự trung thành theo ngữ cảnh’ tại kỳ họp Thượng hội đồng về tính đồng nghị vào ngày 2 tháng 10.
Thực vậy, nhóm nghiên cứu do Đức Giáo Hoàng Phanxicô thành lập để phát triển một cách thức đồng nghị để phân định giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo về điều gọi là các vấn đề gây tranh cãi, bao gồm đạo đức tình dục và các vấn đề về sự sống, đã đề xuất điều họ gọi là “mô hình mới” tập trung nhiều vào đạo đức hoàn cảnh nhưng giảm thiểu các điều tuyệt đối về đạo đức và giáo huấn đã được thiết lập của Giáo hội.
Nhóm này, một trong 10 nhóm nghiên cứu được Đức Giáo Hoàng thành lập vào tháng 2 để cung cấp “phân tích đào sâu” về “các vấn đề có liên quan lớn” đã xuất hiện trong phiên họp năm 2023 của Thượng hội đồng về tính đồng nghị, đã trình bày những phát hiện của mình trước Kỳ họp vào ngày 2 tháng 10, ngày đầu tiên của kỳ họp năm 2024. Một văn bản của bài thuyết trình đã được chia sẻ với báo chí.
Nhóm đã nói về việc phân định học thuyết, đạo đức và các phương pháp tiếp cận mục vụ bằng cách đánh giá kinh nghiệm sống của người ta thông qua các cuộc tham vấn với dân Chúa và bằng cách phản ứng với những thay đổi về văn hóa. Nhóm đã trình bày những nguồn này như những nơi mà Chúa Thánh Thần lên tiếng theo cách có thể lấn át và dường như mâu thuẫn với những gì Giáo hội đã dạy một cách có thẩm quyền.
Nhóm này, với bảy thành viên bao gồm một nhà thần học gây tranh cãi nổi tiếng vì đặt câu hỏi về sự tồn tại của các giá trị tuyệt đối về đạo đức, đã mô tả cách tiếp cận này như một phần của “sự chuyển đổi tư tưởng hoặc cải cách các hoạt động theo sự trung thành với Tin Mừng của Chúa Giêsu, Đấng ‘là hôm qua, hôm nay và mãi mãi’, nhưng ‘sự phong phú và vẻ đẹp của Người là vô tận.’”
“Về mặt đạo đức, đây không phải là vấn đề áp dụng chân lý khách quan được đóng gói sẵn vào các tình huống chủ quan khác nhau, như thể chúng chỉ là những trường hợp đặc thù của một luật bất biến và phổ quát”, báo cáo tình hình của nhóm cho biết trước phiên họp Thượng hội đồng về tính đồng nghị hôm qua. “Các tiêu chuẩn để phân định nảy sinh từ việc lắng nghe sự Mặc khải [sống động] tự ban cho nơi Chúa Giêsu trong ngày hôm nay của Chúa Thánh Thần”.
Trong một sự tương phản tiềm tàng với báo cáo của nhóm, Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo dạy rằng “các phương thức truyền tải” cơ bản của mặc khải của Chúa Kitô là Kinh thánh và Truyền thống và việc giải thích có thẩm quyền các nguồn này “đã được giao phó cho văn phòng giảng dạy sống động của Giáo hội mà thôi”. Mặc khải của Kitô giáo cũng bao gồm các giới luật đạo đức tuyệt đối và có thể áp dụng phổ quát, dường như không thể thay đổi dựa trên kinh nghiệm chủ quan hoặc tham vấn rộng rãi. Nhóm nghiên cứu có ý định đưa ra “các hướng dẫn cụ thể để phân định” dựa trên mô hình mới của mình cho hai nhóm vấn đề: hòa bình và quản lý hoàn cầu; và “ý nghĩa của tình dục, hôn nhân, việc sinh con, và việc thúc đẩy và chăm sóc sự sống”.
Giống như chín nhóm nghiên cứu khác của Thượng hội đồng do Đức Giáo Hoàng Phanxicô thành lập, nhóm tập trung vào việc phân định các vấn đề gây tranh cãi có nhiệm vụ kéo dài đến tháng 6 năm 2025, vượt xa thời điểm kết thúc Thượng hội đồng về tính đồng nghị vào ngày 27 tháng 10 năm 2024. Không rõ báo cáo cuối cùng của nhóm nghiên cứu sẽ có tư thế như thế nào.
Tại một cuộc họp báo vào ngày 3 tháng 10, thư ký đặc biệt của Thượng hội đồng, Cha Giacomo Costa, một tu sĩ dòng Tên, cho biết những người khác sẽ có thể gửi các đề xuất để các nhóm nghiên cứu xem xét và các nhóm nghiên cứu không nên được coi là “bị bao vây”. Tổng thư ký của Thượng hội đồng giám mục, Hồng Y Mario Grech, sẽ chịu trách nhiệm đảm bảo rằng các nhóm nghiên cứu tiến hành theo “phương pháp đồng nghị”, những người tổ chức cho biết.
“Tôi mời các bạn đừng nghĩ rằng những nhóm này tách biệt khỏi đời sống của Giáo hội, nhưng chúng là những phòng thí nghiệm thực sự của đời sống đồng nghị”, Cha Costa nói. “Thực sự là các cuộc tập huấn”.
Theo văn bản trình bày của nhóm nghiên cứu, nhóm nhấn mạnh đến nhu cầu phát triển một nền nhân học và “đạo đức văn hóa-lịch sử” hài hòa với “kerygma [tín lý sơ truyền] và những hàm ý thiết yếu của nó” và cũng với “hàm ý mới được tiết lộ trong thực tại”.
Nhóm đã liên kết sự phân định của những “tình thế mới nổi” này với cuộc thảo luận của Thượng hội đồng về tính đồng nghị về việc đưa những người không phải giám mục vào các quá trình ra quyết định của Giáo hội.
Đồng thời, mô hình được nhóm nghiên cứu đề xuất đã nhiều lần làm giảm tính liên quan của các tuyên bố đã được thiết lập của Giáo hội, nhấn mạnh nhu cầu phải vượt ra ngoài “việc công bố và áp dụng các nguyên tắc giáo lý trừu tượng” để “mở lòng đón nhận những thúc giục luôn mới mẻ của Chúa Thánh Thần”.
“Chỉ có sự căng thẳng quan trọng, hiệu quả và có đi có lại giữa giáo lý và thực hành mới hiện thân được Truyền thống sống động và có thể chống lại sự cám dỗ dựa vào sự cằn cỗi [cứng ngắc] của các tuyên bố bằng lời nói”, bản văn báo cáo của nhóm cho biết.
Tại nhiều điểm khác nhau, bài thuyết trình của nhóm mô tả chân lý đạo đức như phụ thuộc vào, thay vì là một phần không thể thiếu của, sự cứu rỗi nhân bản. Hàm ý là giáo lý về một vấn đề đạo đức nên thay đổi nếu nó được coi là rào cản đối với tư cách thành viên của một ai đó trong Giáo hội.
Bản văn trình bày không đề cập đến sự liên quan của các giá trị tuyệt đối về đạo đức trong việc phân định các vấn đề đạo đức, giáo lý và mục vụ. Trong thông điệp Veritatis Splendor (Sự huy hoàng của chân lý) năm 1993, Thánh Gioan Phaolô II đã dạy rằng, trái ngược với chủ nghĩa tương đối về đạo đức, các chân lý đạo đức tuyệt đối hiện hữu, bắt nguồn từ bản chất con người và do đó có thể áp dụng phổ quát, và có thể tiếp cận được với lý trí con người.
Trước đây, những người quan sát Thượng hội đồng về tính đồng nghị đã bày tỏ lo ngại rằng nền tảng thần học của nó phụ thuộc quá nhiều vào tư tưởng của Cha Karl Rahner (1904-1984), một nhà thần học Dòng Tên gây tranh cãi, người đã hạ thấp khả năng của các công thức giáo lý để đề cập một cách đáng tin cậy đến các thực tại siêu nhiên và nhấn mạnh sự mặc khải liên tục của Chúa thông qua kinh nghiệm bản thân của các tín hữu.
Các thành viên của nhóm nghiên cứu bao gồm Cha Maurizio Chiodi, một nhà thần học đạo đức đã bị chỉ trích trong những năm gần đây vì thách thức giáo lý đã được thiết lập của Giáo hội và phủ nhận các giá trị đạo đức tuyệt đối.
Cha Chiodi đã lập luận rằng việc sử dụng biện pháp tránh thai trong hôn nhân có thể được phép về mặt đạo đức trong một số trường hợp và đã nói vào năm 2017 rằng các mối quan hệ đồng tính “trong một số điều kiện nhất định” có thể là “cách hiệu quả nhất” để những người có ham muốn đồng tính “tận hưởng mối quan hệ tốt đẹp”.
Vị linh mục người Ý, vừa là giáo sư tại Viện Thần học Giáo hoàng Gioan Phalô II về Hôn nhân và Khoa học Gia đình vừa là thành viên của Viện Hàn lâm Giáo hoàng về Sự sống, gần đây đã được Đức Giáo Hoàng Phanxicô bổ nhiệm làm cố vấn cho Bộ Giáo lý Đức tin.
Cha Dòng Tên Carlo Casalone, một nhà thần học đạo đức tại Đại học Gregorian, cũng là người được Đức Phanxicô bổ nhiệm vào Viện Hàn lâm Giáo hoàng về Sự sống, cũng là thành viên của nhóm nghiên cứu. Ngài đã gây ra tranh cãi vào năm 2022 khi ủng hộ luật hợp pháp hóa việc hỗ trợ tự tử ở Ý.
Các thành viên khác của nhóm bao gồm Tổng giám mục Carlos Catillo của Lima, Peru, cũng là thành viên của Học viện Giáo hoàng về Sự sống; Tổng giám mục Filippo Iannone Ý, chủ tịch của Bộ Văn bản Lập pháp; Cha Piero Coda của Ý, giáo sư thần học giáo điều tại Đại học Sophia ở Loppiano, Ý và là tổng thư ký của Ủy ban Thần học Quốc tế; Sơ Thánh Andrew Josée Nagalula của Cộng hòa Dân chủ Congo, giáo sư thần học giáo điều tại Đại học Công Giáo Congo ở Kinshasa và là thành viên của Ủy ban Thần học Quốc tế; và Stella Morra của Ý, một nhà thần học cơ bản tại Gregorian và cố vấn cho Bộ Giáo lý Đức tin.
Là một mô hình kinh thánh về “sự thay đổi mô hình đang được truyền bá bởi quá trình đồng nghị”, nhóm đã chọn câu chuyện về Công đồng Giêrusalem trong Công vụ 15, dẫn đến việc Giáo hội không còn yêu cầu cắt bì nữa. Nhóm nghiên cứu cho biết sự kiện này làm nổi bật “lệnh cấm cản trở ý muốn cứu độ phổ quát của Chúa bằng bất cứ điều gì không còn ý nghĩa hiệu quả nào nữa”.
Nhóm thừa nhận những khó khăn tiềm ẩn trong việc áp dụng khuôn khổ của mình, bao gồm “sự khan hiếm — và không quen thuộc với — vốn từ vựng và khái niệm cần thiết” và “những kháng cự ngầm định về mô hình”, nhưng vẫn bày tỏ sự tin tưởng rằng nhóm có thể phát triển mô hình được đề xuất của mình một cách đầy đủ hơn.
Chúng ta “được kêu gọi thực hiện một cuộc hoán cải hoàn toàn và đầy thử thách; một cuộc hoán cải có hình hài cụ thể trong cách chúng ta trình bày và diễn dịch chân lý của Tin Mừng”, nhóm cho biết trong bài thuyết trình của mình, “như được thể hiện và thực hành trong tình yêu thương vô điều kiện của Thiên Chúa trong Chúa Kitô”.