Từ chuyến bay của Đức Thánh Cha
1. Fatima Al Najem của Hãng thông tấn Bahrain: Tôi muốn nói với ngài vài điều trước khi tôi đặt câu hỏi với ngài. Ngài có một vị trí rất đặc biệt trong trái tim tôi, không chỉ vì ngài đã đến thăm đất nước của tôi mà vì ngài đã được bầu làm Giáo hoàng vào ngày sinh nhật của tôi. Tôi có một câu hỏi: ngài đánh giá thế nào về kết quả của chuyến thăm lịch sử của ngài đến Vương quốc Bahrain và ngài đánh giá thế nào về những nỗ lực mà Bahrain đang thực hiện trong việc củng cố và thúc đẩy cuộc sống chung, trong tất cả các lĩnh vực xã hội, của tất cả các tôn giáo, giới tính và chủng tộc?
ĐTC Phanxicô: Đó là một chuyến viếng thăm gặp gỡ bởi vì mục đích thực sự là để đối thoại liên tôn với Hồi giáo và đối thoại đại kết với Đức Batôlômêô. Các ý tưởng được đưa ra bởi Đại Giáo trưởng Hồi giáo của Al-Azhar là theo hướng tìm kiếm sự hiệp nhất, hiệp nhất trong Hồi giáo, tôn trọng các sắc thái và sự khác biệt, nhưng với sự hiệp nhất; hiệp nhất với các Kitô hữu và với các tôn giáo khác. Để tham gia đối thoại liên tôn hoặc đối thoại đại kết, bạn cần có bản căn tính riêng của mình. “Tôi là người Hồi giáo”, “tôi là Kitô hữu”, tôi có căn tính này và vì vậy tôi có thể nói với căn tính. Khi căn tính của bạn không được xác định, khi hơi “vô hình”, thật khó để tham gia đối thoại vì không có qua lại và đó là lý do tại sao điều đó quan trọng và hai [lãnh đạo] đã đến, cả Đại Giáo chủ Hồi giáo của Al-Azhar và Đức Thượng phụ Bartôlômêô, có một căn tính mạnh mẽ. Và điều đó là tốt.
Theo quan điểm Hồi giáo, tôi đã nghe kỹ ba bài phát biểu của Đại Giáo trưởng Hồi giáo và tôi bị ấn tượng bởi cách ông kiên quyết đối thoại nội bộ Hồi giáo, không phải để xóa bỏ sự khác biệt mà để hiểu nhau và làm việc cùng nhau, không được chống lại nhau. Những Kitô hữu chúng tôi có một lịch sử tồi tệ về những khác biệt đã dẫn chúng ta đến những cuộc chiến tranh tôn giáo: Người Công giáo chống lại Chính thống giáo hoặc chống lại Tin Lành Luther. Bây giờ, tạ ơn Chúa, sau Công đồng có một sự gần gũi và chúng tôi có thể đối thoại và làm việc cùng nhau và đó là điều quan trọng, một bằng chứng về việc làm điều tốt cho người khác. Sau đó, các chuyên gia, các nhà thần học sẽ và có thể thảo luận những vấn đề thần học, nhưng chúng ta phải bước đi cùng nhau như là các tín hữu, như bạn bè, như anh chị em, làm điều tốt.
Tôi cũng rất ấn tượng với những điều được nói trong Hội đồng các Bô lão, về sự sáng tạo và việc bảo tồn công trình sáng tạo, và đây là mối quan tâm chung của tất cả mọi người, người Hồi giáo, Kitô hữu, tất cả mọi người. Giờ đây, Quốc vụ khanh Toà Thánh và Đại Giáo trưởng Hồi giáo của Al-Azhar đang đi từ Bahrain đến Cairo trên cùng một chuyến bay, cùng với nhau như những người anh em. Đây là một điều khá cảm động. Đây là một điều tạo nên điều tốt.
Sự hiện diện của Đức Thượng phụ Batôlômêô – ông là một người có thẩm quyền trong lĩnh vực đại kết – cũng tạo nên điều tốt. Chúng tôi thấy điều đó trong công việc đại kết mà chúng tôi đã có và cả trong những từ mà ngài đã nói trước đó. Tóm lại: đó là một cuộc hành trình gặp gỡ. Đối với tôi, sự mới lạ của việc tìm hiểu một nền văn hóa mở cửa cho tất cả mọi người: ở đất nước của bạn, có chỗ cho tất cả mọi người. Ngoài ra, tôi thấy, nhà vua đã nói với tôi: “ở đây mọi người làm những gì họ muốn, nếu một người phụ nữ muốn làm việc, hãy để cô ấy làm việc.” Sự cởi mở hoàn toàn. Và cả về tôn giáo, sự cởi mở. Tôi bị ấn tượng bởi số lượng các Kitô hữu – người Philippines, người Ấn Độ từ Kerala – đang ở đây và họ sống và làm việc tại đất nước này.
Fatima Al Najem: Họ cầu chúc ngài khỏe mạnh.
ĐTC Phanxicô: Đó là ý tưởng, tôi đã khám phá ra một điều gì đó mới mẻ giúp tôi hiểu và tương tác nhiều hơn với mọi người. Từ khóa chính là đối thoại, và để đối thoại, bạn phải bắt đầu từ căn tính của mình, có một căn tính.
Fatima Al Najem: Xin cảm ơn Đức Thánh Cha. Tôi sẽ cầu nguyện với Allah Toàn năng chúc lành cho ngài, ban cho ngài sức khỏe, hạnh phúc và sống lâu.
ĐTC Phanxicô: Vâng, xin cầu nguyện cho tôi, không chống lại (cười).
2. Imad Atrach: Thưa Đức Thánh Cha, kể từ khi ký “Văn kiện về Tình huynh đệ nhân loại” cách đây ba năm cho đến chuyến thăm Baghdad và sau đó là Kazakhstan mới đây: đây có phải là một con đường mà ngài cho là đang mang lại kết quả rõ ràng không? Chúng ta có thể mong đợi nó đạt đến đỉnh điểm trong một cuộc họp tại Vatican không? Và con muốn cảm ơn ngài đã đề cập đến Libăng ngày hôm nay, bởi vì là một người Libăng, con có thể nói với ngài rằng chúng con thực sự rất cần chuyến thăm của ngài, đặc biệt là bởi vì bây giờ chúng con thậm chí không có Tổng thống, vì vậy ngài có thể đến và trực tiếp ôm lấy người dân.
ĐTC Phanxicô: “Cảm ơn bạn. Tôi đã suy nghĩ rất nhiều trong những ngày này – và chúng tôi đã nói về nó với Đại Giáo trưởng Hồi giáo – về cách thế ý tưởng về Tài liệu Abu Dhabi ra đời, Tài liệu đó chúng tôi đã cùng nhau làm, tài liệu đầu tiên. Ngài ấy đến Vatican để thăm xã giao: sau cuộc họp theo nghi thức của chúng tôi thì đã gần đến giờ ăn trưa và ngài ấy sắp rời đi, và khi tôi tiễn ngài ấy để chào tạm biệt, tôi đã hỏi: “Ngài định ăn trưa ở đâu?” ‘Tôi không biết ngài ấy đã nói gì với tôi nhưng chúng tôi quyết định ăn trưa cùng nhau.” Đó là một cái gì đó đến từ bên trong. Sau đó, ngồi vào bàn, ngài ấy, thư ký của ngài ấy, hai cố vấn, tôi, thư ký của tôi, cố vấn của tôi, chúng tôi lấy bánh mì, bẻ ra và đưa cho nhau. Một cử chỉ của tình bạn, trao bánh. Đó là một bữa trưa rất tốt đẹp, rất huynh đệ. Và cuối cùng, tôi không biết ai đã đưa ra ý tưởng, chúng tôi nói, “tại sao chúng ta không soạn một tài liệu về cuộc họp này?” Vì vậy, Tài liệu Abu Dhabi đã ra đời. Hai thư ký đã làm việc, với một bản thảo được soạn đi soạn lại, và cuối cùng, chúng tôi đã tận dụng cuộc họp ở Abu Dhabi để công bố nó. Đó là một điều đến từ Thiên Chúa. Bạn không thể hiểu nó bằng cách khác, bởi vì không ai trong chúng tôi nghĩ đến điều này. Nó xuất hiện trong một bữa ăn trưa thân thiện, và đó là một điều quan trọng.”
Sau đó, tôi tiếp tục suy nghĩ, và Tài liệu Abu Dhabi là nền tảng của “Fratelli tutti”; những gì tôi đã viết về tình bạn của con người trong “Fratelli tutti” dựa trên Tài liệu Abu Dhabi. Tôi tin rằng một người không thể nghĩ ra một con đường như vậy mà không nghĩ đến một phúc lành đặc biệt từ Chúa trên hành trình này. Tôi muốn nói điều này vì công lý, có vẻ như bạn biết Chúa đã truyền cảm hứng cho con đường này như thế nào. Tôi thậm chí còn không biết tên của Đại Giáo trưởng Hồi giáo là gì, và sau đó chúng tôi trở thành bạn và làm một số điều với tư cách là hai người bạn, và bây giờ chúng tôi nói chuyện mỗi khi gặp nhau. Ngày nay, Tài liệu thì hợp thời và chúng tôi đang làm việc để làm cho nó được biết đến.
Sau đó, liên quan đến Libăng… Libăng là một nỗi buồn đối với tôi. Bởi vì bản thân Libăng không phải là một quốc gia, một vị Giáo hoàng đã nói điều đó trước tôi, Libăng không phải là một quốc gia, đó là một thông điệp. Libăng có một ý nghĩa rất lớn đối với tất cả chúng ta. Và Libăng ngay bây giờ đang đau khổ. Tôi cầu nguyện và lợi dụng cơ hội này để kêu gọi các chính trị gia Libăng: hãy gạt tư lợi sang một bên, hãy nhìn vào đất nước và đồng lòng. Đầu tiên là Thượng đế, rồi đến đất nước, sau đó là quyền lợi. Thiên Chúa và đất nước. Ngay bây giờ tôi không muốn nói “hãy cứu Libăng” vì chúng ta không phải là đấng cứu thế, nhưng xin các bạn phải ủng hộ Libăng, hãy giúp đỡ để Libăng dừng lại cuộc chia rẽ này, để Libăng lấy lại được sự vĩ đại của mình. Có những phương tiện … có sự quảng đại của Libăng. Có bao nhiêu người tị nạn chính trị ở Libăng! Nó rất quảng đại và đang đau khổ. Tôi lợi dụng cơ hội này để xin những lời cầu nguyện cho Libăng, cầu nguyện cũng là một tình bạn. Các bạn là nhà báo, hãy nhìn Libăng và nói về nó để nâng cao nhận thức. Cảm ơn các bạn.
3. Carol Glatz của CNS: Thưa Đức Giáo hoàng, trong chuyến đi đến Bahrain này, ngài đã nói về các quyền cơ bản, bao gồm quyền của phụ nữ, phẩm giá của họ, quyền có chỗ trong lĩnh vực xã hội và công cộng và ngài đã khuyến khích những người trẻ tuổi can đảm, gây tiếng ồn; tiến tới một thế giới công bằng hơn. Với tình hình gần đây, ở Iran, với các cuộc biểu tình đã bùng lên bởi một số phụ nữ và nhiều thanh niên muốn có thêm tự do. Ngài có ủng hộ nỗ lực này của phụ nữ và nam giới đòi hỏi có các quyền cơ bản cũng được tìm thấy trong Tài liệu về Tình huynh đệ con người không?
Chúng ta phải nói cho nhau sự thật. Cuộc đấu tranh cho quyền của phụ nữ là một cuộc đấu tranh liên tục. Bởi vì ở một số nơi, phụ nữ có quyền bình đẳng với nam giới, nhưng ở những nơi khác thì không. Tôi nhớ vào những năm 1950 ở đất nước tôi khi diễn ra cuộc đấu tranh cho quyền công dân của phụ nữ: phụ nữ có quyền bầu cử. Bởi vì cho đến khoảng những năm 50 chỉ có nam giới mới có thể làm như vậy. Và tôi nghĩ về cuộc đấu tranh tương tự này ở Hoa Kỳ. Tôi tự hỏi, nhưng tại sao nữ giới phải đấu tranh như vậy để giữ quyền của mình? Có một truyền thuyết – tôi không biết đó có phải là truyền thuyết hay không – về nguồn gốc của đồ trang sức phụ nữ – có thể đó là truyền thuyết – giải thích sự tàn nhẫn của rất nhiều tình huống đối với phụ nữ. Người ta nói rằng phụ nữ đeo nhiều đồ trang sức bởi vì ở một đất nước – tôi không nhớ, có lẽ đó là một sự thật lịch sử – có một phong tục rằng khi người chồng chán người phụ nữ, anh ta sẽ nói với cô ấy, “Đi đi!” và cô ấy không thể quay lại và lấy bất cứ thứ gì. Cô phải ra đi với những gì cô có trên người. Và (đó sẽ là) lý do tại sao họ tích lũy vàng để ít nhất có thể lấy đi một thứ gì đó. Họ nói rằng đây là nguồn gốc của đồ trang sức. Tôi không biết nó có đúng hay không, nhưng hình ảnh này giúp chúng ta.
Quyền là cơ bản: nhưng tại sao trong thế giới ngày nay chúng ta lại không thể ngăn chặn thảm kịch cắt âm vật của các cô gái trẻ? Điều này thật tồi tệ. Ngày nay. Thực tế là tồn tại tập tục này, rằng nhân loại không thể ngăn chặn tội ác này, một hành vi tội ác! Phụ nữ, theo hai nhận xét mà tôi đã nghe, hoặc là đồ vật “dùng một lần” – điều đó thật tệ – hoặc họ là “chủng loại được bảo vệ.” Nhưng sự bình đẳng giữa nam và nữ vẫn chưa được tìm thấy trên khắp hoàn cầu, và có những trường hợp như thế này: đó là phụ nữ là công dân hạng hai hoặc kém hơn. Chúng ta phải tiếp tục chiến đấu vì điều đó, bởi vì phụ nữ là một món quà. Thiên Chúa đã không tạo ra con người và sau đó cho anh ta một con chó nhỏ để làm thú cưng. Người không làm thế. Người đã tạo ra họ bình đẳng: người nam và người nữ. Và những gì thánh Phaolô đã viết trong một trong những thư của ngài về các tương quan nam nữ, điều có vẻ lỗi thời đối với chúng ta ngày nay, vào thời điểm đó mang tính cách mạng đến mức gây xì-căng-đan. Ngài nói người nam nên chăm sóc người nữ như chính xác thịt của mình. Điều này, vào thời điểm đó, là một điều mang tính cách mạng. Tất cả các quyền của phụ nữ đều xuất phát từ sự bình đẳng này. Và một xã hội không thể trao cho người phụ nữ vị trí của họ thì không thể tiến triển. Chúng ta có kinh nghiệm (về điều này). Trong cuốn sách tôi viết “Torniamo a sognare” – Chúng ta hãy tiếp tục mơ lại,ví dụ về phần kinh tế học, có những nữ kinh tế học trên thế giới đã thay đổi tầm nhìn kinh tế và có thể thực hiện nó. Bởi vì họ có một quà tặng khác. Họ biết cách điều hành mọi thứ theo một cách khác, không hề thua kém, nó bổ sung cho nhau. Tôi đã từng trò chuyện với một người đứng đầu chính phủ, một người đứng đầu chính phủ vĩ đại, một bà mẹ có nhiều con, người đã rất thành công trong việc giải quyết các tình huống khó khăn. Và tôi nói với bà ấy, “Thưa bà, bà đã giải quyết một tình huống khó khăn như vậy như thế nào?”
Bà ấy bắt đầu cử động tay như thế này, trong thinh lặng. Sau đó, bà ấy nói với tôi: như (chúng tôi) các bà mẹ làm. Phụ nữ có cách giải quyết vấn đề của riêng họ, đó không phải là cách của nam giới. Và cả hai cách phải làm việc cùng nhau: người phụ nữ, bình đẳng với người nam, làm việc vì lợi ích chung với cái nhìn sâu sắc mà phụ nữ có. Tôi đã thấy rằng ở Vatican, mỗi khi một phụ nữ đến làm một công việc ở Vatican, mọi thứ trở nên tốt hơn. Ví dụ, phó thống đốc của Vatican là một phụ nữ, phó thống đốc là một phụ nữ, và mọi thứ đã thay đổi theo hướng tốt nhất. Trong Hội đồng Kinh tế, trước đây có sáu hồng y và sáu giáo dân, tất cả đều là nam giới. Tôi đã thay đổi những giáo dân, tôi đặt một người nam và năm người nữ. Và đây là một cuộc cách mạng vì phụ nữ biết cách tìm ra con đường đúng đắn, họ biết cách tiến về phía trước. Và bây giờ tôi đã đưa bà Marianna Mazzuccato vào Hàn lâm viện Toà Thánh về Sự sống. Bà ấy là một nhà kinh tế vĩ đại đến từ Hoa Kỳ, tôi đặt bà ấy ở đó để tạo thêm một chút tính nhân văn cho nó. Phụ nữ mang điều của riêng họ, họ không cần phải trở nên giống như nam giới. Không! họ là phụ nữ, chúng ta cần họ. Và một xã hội xóa bỏ phụ nữ khỏi cuộc sống công cộng là một xã hội tự làm nghèo chính mình. Nó tự làm nghèo chính nó. Bình đẳng về quyền, đúng. Nhưng cũng bình đẳng về cơ hội. Bình đẳng về cơ hội để tiến triển, nếu không chúng ta sẽ trở nên nghèo khổ. Tôi nghĩ với điều đó, tôi đã nói những gì toàn cầu cần phải làm. Nhưng chúng ta vẫn còn một số điều cần làm. Bởi vì có ‘machismo’ – chủ nghĩa nam giới – này. Tôi đến từ một dân tộc với chủ nghĩa nam giới. Người Argentina, chúng tôi luôn theo chủ nghĩa nam giới. Và điều đó thật tồi tệ, nhưng sau đó chúng ta lại hướng về mẹ của chúng ta, họ là người giải quyết vấn đề. Chủ nghĩa nam giới này giết chết nhân loại. Cảm ơn bạn đã cho tôi cơ hội để nói điều này, đó là (điều mà) tôi mang trong lòng. Hãy đấu tranh không chỉ vì quyền lợi; mà bởi vì chúng ta cần có những người phụ nữ trong xã hội để giúp chúng ta thay đổi.
4. Antonio Pelayo của Vida Nueva: Thưa Đức Thánh Cha, lần duy nhất mà ngài nói bộc phát trong chuyến đi này là nói đến “Ucraine bị giày xéo và “các cuộc đàm phán hòa bình.” Con muốn hỏi ngài liệu ngài có thể cho chúng con biết bất cứ điều gì về các cuộc đàm phán này đang diễn ra như thế nào về phía Vatican không. Và một câu hỏi khác: gần đây ngài có nói chuyện với ông Putin hay có ý định làm như vậy trong tương lai gần không?
ĐTC Phanxicô: Tốt. Trước hết: Vatican thường xuyên quan tâm chú ý, Phủ Quốc vụ khanh làm việc và hoạt động tốt, hoạt động tốt. Tôi biết rằng Ngoại trưởng, Đức Tổng Giám mục Gallagher, làm việc tốt ở đó.
Sau đó, có một chút lịch sử. Một ngày sau khi chiến tranh [bắt đầu] – tôi đã nghĩ rằng điều này không thể thực hiện được, một điều bất thường – tôi đã đến đại sứ quán Nga, để nói chuyện với đại sứ, một người tốt. Tôi đã biết ông ấy sáu năm, kể từ khi ông ấy đến. Ông ấy là một nhà nhân văn. Tôi nhớ một nhận xét mà ông ấy đã nói với tôi khi đó: ‘Nous sommes tombés dans la dictature de l’argent’ – Chúng ta đã rơi vào chế độ độc tài về tiền bạc – nói về nền văn minh. Một người theo chủ nghĩa nhân văn, một người đấu tranh cho sự bình đẳng. Tôi nói với ông ấy rằng tôi sẵn sàng đến Mátxcơva để nói chuyện với ông Putin, nếu cần thiết. Ông Lavrov [bộ trưởng ngoại giao, biên tập] trả lời rất lịch sự – cảm ơn – (nhưng) điều đó là không cần thiết vào lúc này.
Kể từ đó chúng tôi đã rất quan tâm. Tôi đã nói chuyện điện thoại hai lần với Tổng thống Zelensky; sau đó với đại sứ một vài lần nữa. Và công việc đang được thực hiện để tiến gần hơn, tìm kiếm giải pháp. Tòa Thánh cũng làm những gì phải làm liên quan đến tù nhân, những việc này … chúng là những việc luôn luôn được thực hiện và Tòa Thánh đã luôn luôn thực hiện, luôn luôn.
Và (sau đó) là giảng dạy vì hòa bình. Điều khiến tôi kinh ngạc – đó là lý do tại sao tôi dùng từ “giày xéo” cho Ucraina – là sự tàn ác, không phải của người dân Nga, có lẽ … bởi vì người dân Nga là một dân tộc vĩ đại. Đó là của những người lính đánh thuê, của những người lính ra trận như một cuộc phiêu lưu, những người lính đánh thuê … Tôi thích nghĩ về nó theo cách này vì tôi rất có lòng kính trọng đối với nhân dân Nga, chủ nghĩa nhân văn Nga. Chỉ cần nghĩ về Dostoevsky, người đã truyền cảm hứng cho chúng ta cho đến ngày nay, truyền cảm hứng cho các Kitô hữu suy nghĩ về Kitô giáo.
Tôi rất có tình cảm rất đối với người dân Nga và tôi cũng có nhiều tình cảm đối với người dân Ucraina. Khi tôi mười một tuổi, có một linh mục gần gũi với tôi cử hành Thánh lễ bằng tiếng Ucraina và không có cậu giúp lễ, và cha ấy đã dạy tôi phục vụ Thánh lễ bằng tiếng Ucraina, và tất cả những bài hát tiếng Ucraina này tôi đều biết bằng ngôn ngữ của họ vì tôi đã học chúng khi là một đứa trẻ. Vì vậy, tôi có sự yêu mến rất nhiều đối với phụng vụ Ucraina. Tôi đang ở giữa hai dân tộc mà tôi yêu mến.
Không chỉ có tôi. Tòa Thánh đã có nhiều cuộc họp mật, và có nhiều kết quả tốt đẹp. Bởi vì chúng ta không thể phủ nhận rằng một cuộc chiến, ban đầu, có lẽ khiến chúng ta dũng cảm. Nhưng sau đó, nó mệt mỏi và đau đớn và chúng ta thấy điều ác mà chiến tranh gây ra. Điều này liên quan đến phần con người hơn, gần gũi hơn.
Và rồi tôi muốn than thở, tận dụng câu hỏi này: ba cuộc chiến tranh thế giới chỉ trong một thế kỷ! Cuộc chiến của những năm 1914-1918, của những năm 1939-1945, và cuộc chiến này! Đây là một cuộc chiến tranh thế giới, bởi vì đúng là khi các đế chế, bên này hay bên kia suy yếu, họ cần phải gây chiến để cảm thấy mạnh mẽ – và cũng để bán vũ khí! Tôi tin rằng ngày nay tai họa lớn nhất trên thế giới là ngành công nghiệp vũ khí. Làm ơn! Tôi đã được nói rằng, tôi không biết có đúng hay không, nếu chúng ta không chế tạo vũ khí trong một năm, chúng ta có thể chấm dứt nạn đói trên thế giới. Ngành công nghiệp vũ khí thật khủng khiếp.
Vài năm trước, ba hoặc bốn năm, một con tàu chở đầy vũ khí từ một quốc gia nào đó đến Genoa và họ phải chuyển vũ khí lên một con tàu lớn hơn để đưa đến Yemen. Các công nhân ở Genoa không muốn làm điều đó … Đó là một cử chỉ. Yemen: hơn mười năm chiến tranh. Trẻ em Yemen không có thức ăn. Người Rohingya, di chuyển từ phe này sang phe kia vì họ bị trục xuất, luôn có chiến tranh. Myanmar, thật khủng khiếp những gì đang xảy ra … Bây giờ tôi hy vọng điều gì đó sẽ dừng lại ngày hôm nay ở Ethiopia, với một hiệp ước …
Nhưng chúng ta đang có chiến tranh ở khắp mọi nơi và chúng ta không hiểu điều này. Bây giờ chúng ta đang bị ảnh hưởng chặt chẽ, ở châu Âu, bởi cuộc chiến Nga-Ucraina. Nhưng nó ở khắp mọi nơi, trong nhiều năm. Ở Syria mười hai đến mười ba năm chiến tranh, và không ai biết liệu có tù nhân hay không và điều gì xảy ra ở đó. Sau đó, Libăng, chúng ta đã nói về thảm kịch này …
Tôi không biết đôi khi tôi có đã nói điều này với các bạn chưa: khi tôi đến Redipuglia, vào năm 2014, tôi thấy điều đó – và ông tôi đã ở Piave và đã kể cho tôi nghe những gì đang diễn ra ở đó – và tất cả những ngôi mộ đó của những người trẻ … Tôi đã khóc, tôi đã khóc, tôi không xấu hổ khi nói ra điều đó. Rồi một lần, vào ngày 2 tháng 11, một ngày mà tôi luôn đến nghĩa trang, tôi đến Anzio và nhìn thấy mộ của tất cả những chàng trai người Mỹ đó, [những người đã chết] trong cuộc đổ bộ Anzio. [Họ] 19-20-22-23 tuổi, và tôi đã khóc, thực sự, điều đó xuất phát từ trái tim tôi … Và tôi nghĩ đến những người mẹ và khi họ nghe thấy tiếng gõ cửa: “Thưa bà, có thư cho bà.” Bà mở phong bì: “Thưa bà, tôi rất vinh dự được thông báo với bà rằng bà có một người con là anh hùng của quê hương … ” Những bi kịch của chiến tranh.
Tôi không muốn nói xấu bất cứ ai, nhưng điều đó đã chạm đến trái tim tôi: khi lễ kỷ niệm cuộc đổ bộ Normandy diễn ra. Những người đứng đầu của rất nhiều chính phủ đã ở đó để tưởng nhớ điều đó. Đó là sự khởi đầu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa Quốc xã, đó là sự thật. Nhưng có bao nhiêu chàng trai bị bỏ lại trên các bãi biển ở Normandy? Họ nói ba mươi ngàn … Ai nghĩ đến những chàng trai đó? Chiến tranh gieo rắc tất cả những điều này. Đó là lý do tại sao các bạn, những nhà báo, xin hãy là những người theo chủ nghĩa hòa bình, hãy lên tiếng phản đối chiến tranh, chống chiến tranh. Tôi yêu cầu các bạn như một người anh em. Cảm ơn các bạn.
5. Hugues Lefevre của I.Media: Thưa Đức Thánh Cha, sáng nay trong bài phát biểu trước các giáo sĩ Bahrain, ngài đã nói về tầm quan trọng của niềm vui Kitô giáo. Nhưng trong vài ngày qua, nhiều tín hữu Pháp đã mất đi niềm vui này, khi họ phát hiện trên báo chí rằng Giáo hội đã giữ bí mật về việc kết án một giám mục vào năm 2021; vị này hiện đã nghỉ hưu, người đã phạm tội lạm dụng tình dục vào những năm 1990, trong khi là một linh mục. Khi câu chuyện này xuất hiện trên báo chí, 5 nạn nhân mới đã lên tiếng. Ngày nay, nhiều người Công giáo muốn biết liệu tập quán giữ bí mật về những hình phạt theo giáo luật có nên thay đổi và trở nên minh bạch hay không, (và con) muốn biết liệu ngài có nghĩ rằng các hình phạt giáo luật nên được công khai hay không. Cảm ơn ngài.
ĐTC Phanxicô: Cảm ơn bạn về câu hỏi. Tôi muốn bắt đầu [với] một chút lịch sử về vấn đề này. Vấn nạn lạm dụng luôn có đó, không chỉ trong Giáo hội mà ở khắp mọi nơi. Bạn biết rằng 42-46% lạm dụng tính dục diễn ra trong gia đình hoặc cộng đồng. Điều này rất nghiêm trọng, nhưng thói quen luôn là che đậy; trong gia đình, thậm chí ngày nay mọi thứ đều được che đậy, và ngay cả trong cộng đồng, mọi thứ đều bị che đậy, hoặc ít nhất là trong phần lớn các trường hợp. Một thói quen tệ hại đã bắt đầu thay đổi trong Giáo hội khi một vụ bê bối nổi lên ở Boston vào thời Đức Hồng y Law, người vì vụ bê bối đã từ chức; đây là lần đầu tiên [một trường hợp lạm dụng] được đưa ra như một vụ bê bối.
Kể từ đó, Giáo hội nhận thức được điều này và bắt đầu hoạt động, trong khi trong xã hội và các thể chế khác, điều đó thường được che đậy. Khi có cuộc họp của các Chủ tịch Hội đồng Giám mục [về vấn đề này] tôi đã hỏi UNICEF, Liên Hiệp quốc, thống kê về [hiện tượng] này, số liệu phần trăm: trong gia đình, cộng đồng, trường học, thể thao …
Một số người nói rằng chúng ta là một thiểu số nhỏ, nhưng [tôi nói] ngay cả khi đó là một trường hợp đơn lẻ, nó vẫn sẽ là bi kịch, bởi vì bạn, là một linh mục, có ơn gọi làm cho mọi người phát triển, và khi cư xử như thế này, bạn đã hủy diệt họ. Đối với một linh mục, lạm dụng là đi ngược lại bản chất linh mục và chống lại bản chất xã hội của mình. Đó là lý do tại sao nó là bi kịch và tại sao chúng ta không được dừng lại, chúng ta không được dừng lại.
Trong sự thức tỉnh này, thực hiện các cuộc điều tra và tiến tới việc buộc tội, mọi thứ không phải mọi lúc [và ở mọi nơi] đều giống nhau, một số điều đã bị che giấu. Trước vụ bê bối ở Boston người ta được thay thế [tức là các linh mục đã bị chuyển đi], bây giờ mọi thứ đều minh bạch và chúng ta đang tiến bước, đó là lý do tại sao chúng ta không nên ngạc nhiên khi những trường hợp như thế này được đưa ra ánh sáng. Bây giờ vụ án của một giám mục khác xuất hiện trong trí tôi, có những trường hợp, bạn biết không …? Và [bây giờ] thật không dễ dàng để nói: “Chúng tôi không biết,” hoặc “Đó là nền văn hóa vào thời điểm đó và nó tiếp tục là một nền văn hóa cần che giấu.”
Tôi sẽ nói với bạn điều này: Giáo hội kiên định về điều này, và ở đây tôi muốn công khai sự anh hùng của Đức Hồng y O’Malley, một tu sĩ tốt dòng Capuchinô, người đã cảm thấy cần phải thể chế hoá việc này bằng cách thành lập Ủy ban Bảo vệ Trẻ vị thành niên mà ngài đang lãnh đạo. Và điều này tốt cho tất cả chúng ta và mang lại cho chúng ta sự can đảm. Chúng tôi đang làm việc với tất cả những gì có thể, nhưng biết rằng có những người trong Giáo hội vẫn không nhìn rõ, không chia sẻ … Đó là một quá trình mà chúng tôi đang thực hiện và chúng tôi đang thực hiện nó với lòng can đảm, và không phải ai cũng có dũng khí; đôi khi có sự cám dỗ để thỏa hiệp, và tất cả chúng ta cũng là nô lệ cho tội lỗi của mình, nhưng ý muốn của Giáo hội là làm sáng tỏ mọi sự.
Ví dụ, tôi đã nhận được hai khiếu nại trong những tháng gần đây về các trường hợp lạm dụng đã được che đậy và không được Giáo hội xét xử tốt: Ngay lập tức tôi yêu cầu một cuộc điều tra mới [về hai trường hợp] và bây giờ một phán quyết mới đang được đưa ra; nhưng cũng có điều này, việc sửa đổi các bản án cũ, không được thực hiện tốt [không được đưa ra một cách thích hợp]. Chúng ta làm những gì chúng ta có thể, tất cả chúng ta đều là tội nhân, bạn biết không?
Điều đầu tiên chúng ta phải cảm thấy là xấu hổ, sự xấu hổ sâu sắc về tất cả những điều đó. Tôi tin rằng xấu hổ là một ơn. Chúng ta có thể chiến đấu chống lại mọi tệ nạn trên thế giới nhưng không có sự xấu hổ …. [điều đó vô ích].
Đó là lý do tại sao tôi ngạc nhiên rằng Thánh Inhaxiô, trong Linh Thao, khi ngài muốn bạn cầu xin sự tha thứ về tất cả những tội lỗi bạn đã phạm, ngài khiến bạn phải đi đến chỗ hổ thẹn, và nếu bạn không có ơn xấu hổ bạn không thể tiến bước. Một trong những lời xúc phạm mà chúng tôi có ở đất nước của tôi là “Bạn thật không biết xấu hổ” và tôi tin rằng Giáo hội không thể “không biết xấu hổ”. Giáo hội phải xấu hổ về những điều xấu cũng như [nói] cám ơn Thiên Chúa về điều tốt Giáo hội làm. Điều này tôi có thể nói với bạn: [chúng tôi có] tất cả thiện ý để tiến bước, cũng nhờ sự giúp đỡ của các bạn.
6. Vania De Luca của Rai-Tg3: Thưa Đức Giáo hoàng, ngài cũng đã nói về những người di cư trong những ngày gần đây. Bốn con tàu ngoài khơi bờ biển Sicily, với hàng trăm phụ nữ, đàn ông, trẻ em, đang gặp khó khăn – nhưng không phải tất cả họ đều có thể lên bờ. Ngài có sợ chính sách ‘đóng cửa’ của phe trung hữu quay trở lại ở Ý không? Và ngài đánh giá thế nào về lập trường của một số nước Bắc Âu về điều này? Và sau đó tôi cũng muốn hỏi ngài một cách tổng quát: Ngài có ấn tượng gì, đánh giá gì về chính phủ mới của Ý, lần đầu tiên do một phụ nữ lãnh đạo?
ĐTC Phanxicô: Đó là một thách đố, đó là một thách đố. Về người di cư, [đây] là nguyên tắc: Người di cư phải được chào đón, đồng hành, thúc đẩy và hòa nhập; nếu không thực hiện được bốn bước này thì hoạt động về người di cư không thể tốt. Được chào đón, đồng hành, thúc đẩy và hội nhập; chúng ta phải tiến tới hội nhập.
Và điều thứ hai tôi nói: mỗi chính phủ EU phải đồng ý về việc họ có thể tiếp nhận bao nhiêu người di cư. Ngược lại, có bốn quốc gia tiếp nhận người di cư: Síp, Hy Lạp, Ý và Tây Ban Nha, những quốc gia gần Địa Trung Hải nhất. Trong nội địa có một số, như Ba Lan, Belarus …
Nhưng [nói] về vấn đề lớn của những người di cư vượt biển: sinh mạng phải được cứu. Bạn có biết ngày nay Địa Trung Hải là một nghĩa trang không? Có lẽ là nghĩa trang lớn nhất trên thế giới. Tôi nghĩ lần trước tôi đã nói với các bạn rằng tôi đã đọc một cuốn sách bằng tiếng Tây Ban Nha tên là Hermanito, nó rất nhỏ và đọc rất nhanh, tôi nghĩ chắc chắn nó đã được dịch sang tiếng Pháp và cả sang tiếng Ý. Nó có thể được đọc trong hai giờ. Đó là câu chuyện về một cậu bé đến từ Châu Phi, tôi không biết cậu đến từ Tanzania hay quê ở đâu, người theo bước chân của anh trai mình đến Tây Ban Nha: cậu đã phải chịu chế độ nô lệ năm lần trước khi bị bắt! Cậu kể lại, nhiều người được đưa vào ban đêm trên những con thuyền đó – không phải những con tàu lớn có vai trò khác – và nếu họ không muốn tiếp tục: bùm, bùm! Và người ta để họ lại trên bãi biển – đó thực sự là một chế độ độc tài nô lệ những gì những người đó làm – và sau đó có nguy cơ chết trên biển. Nếu bạn có thời gian, hãy đọc cuốn sách này, điều đó rất quan trọng.
Chính sách di cư phải được thống nhất giữa tất cả các nước; bạn không thể đưa ra chính sách mà không có sự đồng thuận và Liên minh Châu Âu phải thực hiện chính sách hợp tác và giúp đỡ, không thể để lại trách nhiệm cho tất cả những người di cư đến các bãi biển của Síp, Hy Lạp, Ý và Tây Ban Nha. Chính sách của chính phủ từ trước đến nay là cứu người, điều đó đúng. Cho đến một thời điểm nhất định. Và tôi nghĩ chính phủ (Ý) này cũng có chính sách tương tự … Chi tiết thì tôi không biết, nhưng tôi không nghĩ họ muốn thay đổi. Tôi nghĩ rằng họ đã cho trẻ em, bà mẹ và người bệnh lên bờ, ít nhất là từ những gì tôi nghe được, ý định đã có ở đó. Nước Ý, chúng ta hãy nghĩ ở đây … chính phủ này không thể làm gì nếu không có sự đồng ý của Châu Âu; trách nhiệm là một châu Âu.
Và sau đó tôi muốn đề cập đến một trách nhiệm khác của châu Âu đối với châu Phi. Tôi nghĩ điều này đã được nói bởi một trong những nữ chính khách vĩ đại mà chúng ta đã và đang có – bà Merkel. Bà nói rằng vấn đề người di cư phải được giải quyết ở châu Phi, nhưng nếu chúng ta nghĩ về châu Phi với phương châm: “Châu Phi phải bị khai thác”, điều hợp lý là người di cư – người dân – bỏ chạy. Ở châu Âu, chúng ta phải cố gắng lập kế hoạch phát triển cho châu Phi. Hãy nghĩ rằng một số quốc gia ở Châu Phi không phải là người làm chủ đất đai của chính họ, rằng họ vẫn phụ thuộc vào các cường quốc thực dân! Thật là đạo đức giả khi muốn giải quyết vấn đề người di cư ở Châu Âu; chúng ta cũng hãy giải quyết nó tại nhà. Sự bóc lột người dân ở Châu Phi thật khủng khiếp vì quan niệm này.
Vào ngày 1 tháng 1, tôi đã có một cuộc gặp gỡ với các sinh viên đại học từ Châu Phi. Cuộc gặp gỡ giống như tôi đã gặp với Đại học Loyola ở Hoa Kỳ. Những sinh viên đó có một năng lực, một trí tuệ, một ý thức phê bình, một khát vọng tiến lên, nhưng đôi khi họ không thể vì sức mạnh thực dân mà châu Âu có trong chính phủ của họ. Nếu chúng ta muốn giải quyết tốt vấn đề người di cư, hãy giải quyết vấn đề Châu Phi. Những người di cư đến từ nơi khác ít hơn, họ ít hơn, nhưng chúng ta có Châu Phi, hãy giúp đỡ Châu Phi.
Chính phủ [Ý] mới bắt đầu bây giờ. Tôi ở đây: Tôi cầu chúc cho họ điều tốt nhất. Tôi luôn cầu mong những điều tốt đẹp nhất đến với một chính phủ vì chính phủ là của tất cả mọi người và tôi cầu chúc cho họ điều tốt nhất để có thể đưa nước Ý tiến lên; và đối với tất cả những người khác chống lại bên chiến thắng, tôi hy vọng rằng họ cộng tác với tinh thần nghiêm túc, với sự giúp đỡ, nhưng một chính phủ hợp tác, không phải một chính phủ nơi “họ đối xử tốt với bạn trước mặt bạn, nhưng họ đang loại trừ bạn” nếu bạn không thích điều này hay điều khác. Làm ơn, về điều này tôi kêu gọi trách nhiệm. Hãy cho tôi biết có công bằng không khi từ đầu thế kỷ đến nay nước Ý đã có 20 chính phủ? Hãy dừng lại với những trò đùa này…
7. Ludwig Ring-Eifel của Centrum Informationis Catholicum: Con cũng muốn nói điều gì đó cá nhân trước, bởi vì con cảm thấy rất xúc động, bởi vì sau 8 năm chia tay, con đã trở lại trên chuyến bay của Đức Giáo hoàng. Con rất biết ơn khi được ở đây một lần nữa ….
ĐTC Phanxicô: Chào mừng trở lại.
Ludwig: Cảm ơn ngài, con rất vui được trở lại. Trong nhóm, người Đức chúng con rất ít – chỉ có ba người trong chuyến bay này – và chúng con nghĩ: Làm thế nào chúng con có thể kết nối giữa những gì chúng con đã thấy ở Bahrain và tình hình ở Đức? Bởi vì ở Bahrain, chúng con thấy một Giáo hội nhỏ, một đoàn chiên nhỏ, một Giáo hội nghèo, với nhiều hạn chế, vv., nhưng là một Giáo hội sống động, tràn đầy hy vọng, đang phát triển. Ngược lại, ở Đức, chúng con có một Giáo hội lớn, với những truyền thống tuyệt vời; giàu có, với thần học, tiền bạc và mọi thứ, nhưng mất đi ba trăm ngàn tín đồ mỗi năm, người ra đi, người đang rơi vào khủng hoảng sâu sắc. Có điều gì để nước Đức vĩ đại học hỏi từ đàn chiên nhỏ mà chúng ta đã thấy ở Bahrain không?
Đức có một lịch sử tôn giáo lâu đời. Trích dẫn Hölderlin, tôi sẽ nói, “Nhiều thứ đã sống, rất nhiều.” Lịch sử tôn giáo của các bạn rất vĩ đại và phức tạp, [một lịch sử] của những cuộc đấu tranh. Tôi nói với những người Công giáo Đức: Nước Đức có một Giáo hội Tin lành tuyệt vời và đẹp đẽ; tôi không muốn một Giáo hội Tin Lành khác, sẽ không tốt bằng Giáo hội kia; nhưng tôi muốn một Giáo hội Công giáo, trong tình huynh đệ với Giáo hội Tin Lành. Đôi khi chúng ta đánh mất ý thức tôn giáo của dân tộc, của Dân tộc trung thành thánh thiện của Thiên Chúa, và chúng ta sa vào những cuộc thảo luận về luân lý, những cuộc thảo luận về kết nối, những cuộc thảo luận có kết quả thần học, nhưng không phải là cốt lõi của thần học. Dân Chúa thánh thiện, trung thành nghĩ gì? Dân thánh của Thiên Chúa có ý nghĩa gì? Hãy đến đó và tìm kiếm những gì Dân Chúa cảm nhận được, tính tôn giáo đơn giản mà các bạn tìm thấy ở ông bà. Tôi không nói đi ngược lại, không; mà hãy đi về cội nguồn cảm hứng, về cội nguồn. Tất cả chúng ta đều có lịch sử nguồn gốc của đức tin; ngay cả các dân tộc cũng có nó: Hãy tìm nó! Tôi được nhắc nhở về cụm từ Hölderlin đối với thời đại của chúng ta: “Người cao niên nên giữ những gì ông đã hứa khi còn nhỏ.” Thời trẻ chúng ta … chúng ta đã hứa nhiều điều, rất nhiều điều. Bây giờ chúng ta tham gia vào các cuộc thảo luận về đạo đức, vào các cuộc thảo luận ngẫu nhiên, nhưng gốc rễ của tôn giáo là ‘cái tát’ mà Tin Mừng mang lại cho các bạn, cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu hằng sống. Chúa Kitô: và từ đó [bạn nhận] các kết quả, tất cả; từ đó bạn có được sự can đảm của các tông đồ để đi đến những vùng ngoại biên, thậm chí đến những vùng ngoại biên luân lý của người dân để giúp đỡ họ; nhưng [nó bắt đầu] từ cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô. Nếu không có cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô, sẽ có một thứ đạo đức giả dạng Kitô giáo. Đây là điều tôi muốn nói, từ trái tim. Cảm ơn bạn.
Vatican News